Câu số Nội Dung Câu Chú Giải
1 Trăm năm trong cõi người ta,
2 Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau. Người có tài thì thường gặp mệnh bạc, hình như Tài, mệnh ghét nhau, xung khắc với nhau, hễ được hơn cái này thì phải kém cái kia.
3 Trải qua một cuộc bể dâu, Bể dâu: Trong văn chương cổ của chúng ta thường dùng thành ngữ "bãi bể nương dâu", hoặc nói tắt là "bể dâu" để chỉ những sự biến đổi thăng trầm của cuộc đời.
4 Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
5 Lạ gì bỉ sắc tư phong, Bỉ sắc tư phong: Cái kia kém thì cái này hơn, nghĩa là: Được hơn điều này thì bị kém điều kia.
6 Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Tạo hoá ghen với người đàn bà đẹp: Người đàn bà đẹp thường gặp cảnh ngộ không hay.
7 Cảo thơm lần giở trước đèn, Cảo thơm hay Kiểu thơm: do chữ phương cảo, nghĩa là pho sách thơm pho sách hay.
8 Phong tình cổ lục còn truyền sử xanh. Phong tình: Chỉ những chuyện ái tình trai gái. Sử xanh: Thời xưa, khi chưa có giấy, người ta chép sử bằng cách khắc chữ vào những thanh trúc, cật trúc màu xanh, nên gọi là thanh sử.
9 Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh, Gia Tĩnh: Niên hiệu vua Thế Tông, nhà Minh (1522-1566).
10 Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng. Hai kinh: Tức Bắc Kinh và Nam Kinh (Trung Quốc).
11 Có nhà viên ngoại họ Vương, Viên ngoại: Một chức quan giữ việc sổ sách tại các bộ, đặt ra từ thời Lục-triều. Về sau, "Viên ngoại" dần dần trở thành một hư hàm. Chữ "Viên ngoại" ở đây được dùng theo nghĩa này.
12 Gia tư nghỉ cũng thường thường bực trung.
13 Một trai con thứ rốt lòng,
14 Vương Quan là chữ, nối dòng nho gia. Chữ: Theo lễ nghi Trung Quốc xưa, người nào cũng có "danh" là tên chính, và "tự" là tên chữ ("Danh" đặt từ khi sinh ra, còn "tự" thì đến khi hai mươi tuổi mới dựa theo "danh" mà đặt ra).
15 Đầu lòng hai ả tố nga, Tố Nga: Chỉ người con gái đẹp.
16 Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
17 Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Thuý Kiều và Thuý Vân, mỗi người có một vẻ riêng ví như mai có "cốt cách" của mai, tuyết có "tinh thần" của tuyết.
18 Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.
19 Vân xem trang trọng khác vời,
20 Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang. Khuông trăng: Khuôn mặt đầy đặn, tròn trĩnh, xinh xắn như mặt trăng. Nét ngài: nét lông mày.
21 Hoa cười ngọc thốt đoan trang, Thốt: Tiếng cổ có nghĩa là nói. Hoa cười, ngọc thốt: cười tươi như hoa, nói đẹp như ngọc.
22 Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
23 Kiều càng sắc sảo, mặn mà,
24 So bề tài sắc, lại là phần hơn.
25 Làn thu thủy, nét xuân sơn, Thu thuỷ: Nước mùa thu, Xuân sơn: Núi mùa xuân. Câu noi này ví mắt Kiều trong sáng như làn nước mùa thu, lông mày xinh đẹp như rặng núi mùa xuân.
26 Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
27 Một, hai nghiêng nước nghiêng thành, Bài ca của Lý Diên Niên, đời Hán, ca ngợi sắc đẹp của một mĩ nhân có câu:Nhất cố khuynh nhân thành. Tái cố khuynh nhân quốc. Nghĩa là: Quay lại nhìn một lần thì làm nghiêng thành người. Quay lại nhìn lần nữa thì làm nghiêng nước người. Do đó, người sau thường dùng chữ nghiêng nước (khuynh quốc), nghiêng thành (khuynh thành) để chỉ sắc đẹp phi thường của người phụ nữ. Hai chữ một hai trong câu này dịch mấy chữ nhất cố, tái cố ở trên.
28 Sắc đành đòi một, tài đành họa hai. Câu này có nghĩa là về "sắc" thì chỉ có một mình Kiều là nhất, về "tài" thì họa may ra thì còn có người thứ hai nữa.
29 Thông minh vốn sẵn tính trời,
30 Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
31 Cung thương làu bậc ngũ âm, Cung, thương: Hai âm đứng đầu ngũ âm trong cung bậc nhạc cổ của Trung Quốc: Cung, thương giốc, truỷ, vũ. Làu bậc: Làu thông cung bậc.
32 Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương. Hồ cầm: Một loại đàn tỳ bà. Hồ cầm một trương: Một cây đàn hồ cầm.
33 Khúc nhà tay lựa nên chương,
34 Một thiên bạc mệnh, lại càng não nhân. Bạc mệnh: Tên bản đàn do Thuý Kiều sáng tác. "Bạc mệnh" nghĩa là số mệnh bạc bẽo, mỏng manh. Não nhân: Làm cho người ta nghe mà não lòng.
35 Phong lưu rất mực hồng quần, Hồng quần: Cái quân màu hồng, hai chữ này được dùng để chỉ nữ giới.
36 Xuân xanh sấp xỉ tới tuần cập kê Cặp kê: Đến tuổi cài trâm (Kê nghĩa là cài trâm). Theo lễ cổ Trung Quốc, con gái 15 tuổi đến thì hứa gả chồng cho nên bắt đầu búi tóc cài trâm.
37 Êm đềm trướng rủ màn che,
38 Tường đông ong bướm đi về mặc ai. Tường đông: Bức tường ở phía đông. Thời xưa con gái thường ở nhà phía đông. Đây dùng chữ "tường đông" để chỉ chỗ có con gái đẹp ở.
39 Ngày xuân con én đưa thoi, Con én đưa thoi: Chim én bay đi bay lại như chiếc thoi đưa.
40 Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi. Thiều quang: ánh sáng tươi đẹp, chỉ tiết mùa xuân. Mùa xuân có 90 ngày (ba tháng), mà đã ngoài 60, tức là đã bước sang tháng ba.
41 Cỏ non xanh tận chân trời,
42 Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
43 Thanh minh trong tiết tháng ba, Thanh minh: Là tiết đầu của mùa xuân nhằm vào đầu tháng ba.
44 Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh. Tảo mộ: Quét mồ. Theo tục cổ, đến tiết Thanh minh con cháu đi viếng và sửa sang lại phần mộ của cha mẹ tổ tiên. Đạp thanh: Dẫm lên cỏ xanh, chỉ việc trai gái đi chơi xuân, dẫm lên cỏ xanh ngoài đồng, do đó mà gọi hội Thanh minh là hội Đạp thanh.
45 Gần xa nô nức yến anh, Yến anh: Chim yến (én), chim anh (có khi đọc là oanh), hai loài chim về mùa xuân, thường hay ríu rít từng đàn. Đây ví với cảnh những đoàn người rộng ràng đi chơi xuân.
46 Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân.
47 Dập dìu tài tử, giai nhân,
48 Ngựa xe như nước áo quần như nêm. Ngựa đi như nước: Ngựa xe qua lại như nước chảy, hết lớp này đến lớp khác. áo quần như nêm: ý nói người đông đúc, chen chúc.
49 Ngổn ngang gò đống kéo lên, Ngổn ngang gò đống kéo lên: Những đoàn người ngổn ngang kéo nhau lên nơi gò đống.
50 Thoi vàng vó rắc tro tiền giấy bay. Vàng - vó: Một loại vàng giấy, dùng trong việc đưa ma hoặc lễ hội.
51 Tà tà bóng ngả về tây,
52 Chị em thơ thẩn dan tay ra về.
53 Bước dần theo ngọn tiểu khê, Tiểu khê: Ngòi nước nhỏ.
54 Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh.
55 Nao nao dòng nước uốn quanh,
56 Nhịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
57 Sè sè nấm đất bên đàng,
58 Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh.
59 Rằng: Sao trong tiết thanh minh,
60 Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?
61 Vương Quan mới dẫn gần xa:
62 Đạm Tiên nàng ấy xưa là ca nhi. Ca nhi: Con hát.
63 Nổi danh tài sắc một thì,
64 Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.
65 Kiếp hồng nhan có mong manh, Hồng nhan: Má hồng, chỉ người đẹp.
66 Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương. Cành thiên hương: Cành hoa thơm của trời, ví với người đẹp.
67 Có người khách ở viễn phương,
68 Xa nghe cũng nức tiếng nàng tìm chơi.
69 Thuyền tình vừa ghé tới nơi,
70 Thì đà trâm gẫy bình rơi bao giờ. Trâm gãy bình rơi: ý nói người đẹp đã chết.
71 Buồng không lạnh ngắt như tờ,
72 Dấu xe ngựa đã rêu lờ mờ xanh. Dấu xe ngựa: Dấu vết xe ngựa của những khách đến chơi bời trước đấy.
73 Khóc than khôn xiết sự tình,
74 Khéo vô duyên ấy là mình với ta. Bấy: Biết bao nhiêu.
75 Đã không duyên trước chăng mà,
76 Thì nay chút ước gọi là duyên sau.
77 Sắm sanh nếp tử xe châu, Nếp tử, xe châu: Quan tài bằng gỗ tử và xe đưa đám tang có rèm hạt châu. ý nói người khách mua quan tài và thuê xe tang chông cất Đạm Tiên một cách chu đáo.
78 Bụi hồng một nấm mặc dầu cỏ hoa. Bụi hồng: do chữ hồng trần, nghiã là đám bụi đỏ. Đây muốn ám chỉ nấm mộ nằm bên đường, một nấm mồ lưu lại trong cõi trần gió bụi.
79 Trải bao thỏ lặn ác tà, Thỏ bạc, ác vàng: Người xưa cho rằng trong mặt trăng có con thỏ giã thuốc, trong mặt trời có con quạ vàng ba chân.
80 Ấy mồ vô chủ, ai mà viếng thăm!
81 Lòng đâu sẵn mối thương tâm,
82 Thoắt nghe Kiều đã đầm đầm châu sa. Châu: Hạt ngọc châu, đây chỉ nước mắt.
83 Đau đớn thay phận đàn bà!
84 Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
85 Phũ phàng chi bấy hóa công, Hoá công: Thợ tạo hoá, tức là trời.
86 Ngày xanh mòn mỏi má hồng phôi pha. Phượng: Chim phượng trống. LoanI: Chim phượng mái. Trong văn cổ, loan phương dùng để chỉ đôi lứa vợ chồng. ở đây chỉ những khách làng chơi đi lại, chung chạ ái ân với Đạm tiên, ngày trước.
87 Sống làm vợ khắp người ta,
88 Khéo thay thác xuống làm ma không chồng.
89 Nào người phượng chạ loan chung,
90 Nào người tích lục tham hồng là ai? Tiếc lục tham hồng: ý nói luyến tiếc, ham sắc đẹp của giai nhân.
91 Đã không kẻ đoái người hoài,
92 Sẵn đây ta kiếm một vài nén hương.
93 Gọi là gặp gỡ giữa đường,
94 Họa là người dưới suối vàng biết cho. Suối vàng: Do chữ Hoàng tuyền ở dưới đất có mạch suối, mà đất thuộc màu vàng, nên gọi là hoàng tuyền.
95 Lầm rầm khấn khứa nhỏ to,
96 Sụp ngồi vài gật trước mồ bước ra.
97 Một vùng cỏ áy bóng tà, Áy: Vàng úa.
98 Gió hiu hiu thổi một vài bông lau.
99 Rút trâm sẵn giắt mái đầu,
100 Vạch da cây vịnh bốn câu ba vần.
101 Lại càng mê mẩn tâm thần
102 Lại càng đứng lặng tần ngần chẳng ra.
103 Lại càng ủ dột nét hoa,
104 Sầu tuôn đứt nối, châu sa vắn dài.
105 Vân rằng: Chị cũng nực cười,
106 Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa.
107 Rằng: Hồng nhan tự thuở xưa,
108 Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu?
109 Nỗi niềm tưởng đến mà đau,
110 Thấy người nằm đó biết sau thế nào?
111 Quan rằng: Chị nói hay sao,
112 Một lời là một vận vào khó nghe. Vận vào: ý nói lời nào cũng như ám chỉ vào mình.
113 Ở đây âm khí nặng nề, Âm khí: Cái khí cõi âm, cõi chết, ở đây chỉ không khí bãi tha ma.
114 Bóng chiều đã ngả dặm về còn xa.
115 Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
116 Thác là thể phách, còn là tinh anh, Thể: Thể xác (hữu hình). Phách: Chỉ những cái gì vô hình chỉ dựa vào thể xác mà tồn tại.
117 Dễ hay tình lại gặp tình,
118 Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ. Hiển linh: Tỏ sự linh thiêng cho mọi người biết.
119 Một lời nói chửa kịp thưa,
120 Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
121 Ào ào đổ lộc rung cây,
122 Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
123 Đè chừng ngọn gió lần theo,
124 Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
125 Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
126 Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa. Tinh thành: Lòng thành thuần khiết, lòng chí thành.
127 Hữu tình ta lại gặp ta,
128 Chớ nề u hiển mới là chị em. U hiển: U là tối, chỉ cõi chết. Hiển là sáng rõ, chỉ cõi sống. ý nói: chớ nề kẻ sống, người chết, kẻ cõi âm , người cõi dương.
129 Đã lòng hiển hiện cho xem,
130 Tạ lòng nàng lại nối thêm vài lời.
131 Lòng thơ lai láng bồi hồi,
132 Gốc cây lại vạch một bài cổ thi.
133 Dùng dằng nửa ở nửa về,
134 Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
135 Trông chừng thấy một văn nhân,
136 Lỏng buông tay khấu bước lần dặm băng. Tay khấu: Tay càm cương ngựa. ý nói, buông lỏng dây cương cho ngựa đi thong thả. Dăm băng: Như nói dặm đường đi. Băng là lướt đi.
137 Đề huề lưng túi gió trăng, Lưng túi gió trăng: Tức là lưng túi thơ. Những nhà thơ thời xưa hay ngâm phong vịnh nguyệt, nên người ta gọi thơ là phong nguyệt (gió trăng).
138 Sau chân theo một vài thằng con con.
139 Tuyết in sắc ngựa câu giòn, Câu: con ngựa, non trẻ, xinh đẹp.
140 Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
141 Nẻo xa mới tỏ mặt người,
142 Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình. Tự tình: Chuyện trò, bày tỏ tâm tình.
143 Hài văn lần bước dặm xanh, Hài văn: Thứ giày thêu mà nho sĩ thời xưa thường dùng. Dặm xanh: Dặm cỏ xanh.
144 Một vùng như thể cây quỳnh cành dao. Cây quỳnh, cành giao: Cây ngọc quỳnh và cây ngọc giao. ý nói vẻ khôi ngô tuấn tú của Kim Trọng như làm cho cả một vùng cũng hoá thành đẹp.
145 Chàng Vương quen mặt ra chào,
146 Hai Kiều e lệ nép vào dưới hoa. Hai Kiều: Hai người con gái xinh đẹp, tức hai chị em Thuý Kiều.
147 Nguyên người quanh quất đâu xa,
148 Họ Kim tên Trọng vốn nhà trâm anh. Trâm anh: Trâm là cái trâm để cài búi tóc. Anh là cái dải mũ, hai thứ dùng trang sức cho cái mũ của người sĩ tử, quan chức. Nhà trâm anh: Chỉ những nhà thế tộc phong kiến, có người đỗ đạt, làm quan.
149 Nền phú hậu, bậc tài danh, Phú hậu: Giàu có.
150 Văn chương nết đất, thông minh tính trời. Nết đất: Theo lối nhà, theo dòng dõi trong nhà, mạch đất đó có truyền thống văn chương.
151 Phong tư tài mạo tót vời, Phong tư: Dáng điệu. Tài mạo: Tài hoa và dung mạo.
152 Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa. Phong nhã: Phong lưu nho nhã. Hào hoa: Sang trọng phong cách có vẻ quí phái. Vào trong là ở trong nhà, Ra ngoài là ra giao thiệp với đời.
153 Chung quanh vẫn đất nước nhà,
154 Với Vương Quan trước vẫn là đồng thân. Đồng thân: Bạn cùng học.
155 Vẫn nghe thơm nức hương lân, Hương lân: Làng xóm, ý nói: Vẫn nghe tiếng khen đồn đại ở vùng lân cận.
156 Một nền Đồng Tước khóa xuân hai Kiều. Đồng tước: Đời tam quốc, Tào Tháo đào sông Chương Hà, bắt được đôi chim sẻ đồng, bèn cho xây ở gần đó một toà lâu đài, đặt tên là đài Đồng Tước (sẻ đồng), và định hễ đánh thắng Đông Ngô thì bắt hai chị em Đại Kiều và Tiểu Kiều (là vợ Tôn sách và vợ Chu Du) đem về đấy để vui thú cảnh già. Khoá xuân ở đây là khoá kín tuổi xuân, tức cấm cung, tác giả mượn điển cũ để nói lóng rằng: nhà họ Vương có hai cô gái đẹp cấm cung.
157 Nước non cách mấy buồng thêu, Buồng thêu: Buồng người con gái.
158 Những là trộm nhớ thầm yêu chốc mòng. Chốc mòng: Tiếng cổ, nghĩa là bấy lâu, bấy nay.
159 May thay giải cấu tương phùng, Giải cấu tương phùng: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
160 Gặp tuần đố lá thỏa lòng tìm hoa. Đố lá: Hội đố lá, còn gọi là diệp hý, một tục chơi xuân có từ đời nhà Đường. Vào khoảng tháng ba, trai gái đi du xuân, bẻ một cành cây rồi đố nhau xem số lá chẵn hay lẻ để đoán việc may rủi. Đây là dịp để họ làm quen và tìm hiểu nhau.
161 Bóng hồng nhác thấy nẻo xa, Bóng hồng: Bóng người con gái. Phụ nữ Trung Quốc thời xưa hay mặc quần đỏ nên gọi là bóng hồng.
162 Xuân lan thu cúc mặn mà cả hai. Xuân lan, thu cúc: Hai chị em Kiều, mỗi người có một vẻ đẹp riêng, ngưòi như lan mùa xuân, người như cúc mùa thu.
163 Người quốc sắc, kẻ thiên tài, Quốc sắc: Sắc đẹp nhất nước, chỉ Thuý Kiều.
164 Tình trong như đã, mặt ngoài còn e.
165 Chập chờn cơn tỉnh cơn mê.
166 Rốn ngồi chẳng tiện, dứt về chỉn khôn. Chỉn: Tiếng cổ. Chin khôn: chẳng xong, không xong.
167 Bóng tà như giục cơn buồn,
168 Khách đà lên ngựa, người còn nghé theo.
169 Dưới cầu nước chảy trong veo,
170 Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha.
171 Kiều từ trở gót trướng hoa,
172 Mặt trời gác núi chiêng đà thu không.
173 Mảnh trăng chênh chếch dòm song, Gương nga: Theo truyền thuyết trong cung trăng có chị Hằng Nga, nên thường gọi trăng là "gương nga".
174 Vàng gieo ngấn nước, cây lồng bóng sân. Vàng gieo ngấn nước: ánh trăng vàng dọi xuống ngấn nước.
175 Hải đường lả ngọn đông lân, Đông lân: Xóm bên đông, nơi có con gái đẹp ở, cũng giống nghĩa chữ "tường đông" (xem chú thích 38). Hải đường là ngọn đông lân: Cây hải đường ở xóm đông ngả ngọn xuống.
176 Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà.
177 Một mình lặng ngắm bóng nga, Bóng nga: Bóng trăng.
178 Rộn đường gần với nỗi xa bời bời:
179 Người mà đến thế thì thôi, Người mà: Chỉ Đạm Tiên.
180 Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!
181 Người đâu gặp gỡ làm chi, Người đâu: Chỉ Kim Trọng.
182 Trăm năm biết có duyên gì hay không?
183 Ngổn ngang trăm mối bên lòng,
184 Nên câu tuyệt diệu ngụ trong tính tình.
185 Chênh chênh bóng nguyệt xế mành,
186 Tựa nương bên triện một mình thiu thiu. Triện: Lan can.
187 Thoắt đâu thấy một tiểu kiều, Tiểu Kiều: Xem chú thích 146
188 Có chiều thanh vận, có chiều thanh tân. Phong vận: Yểu điệu. Thanh tân: Thanh tú tưới tắn.
189 Sương in mặt, tuyết pha thân, Ý nói mặt và thân hình người tiểu kiều đó như có sự và tuyết in phủ lấy.
190 Sen vàng lãng đãng như gần như xa. Sen vàng: Chỉ gót chân người đẹp. Đông Hôn Hầu, đời Tề (Nam Bắc Triều), rất yêu quí phi họ Phan, từng đúc hoa sen bằng vàng lát xuống nền nhà, để cho nàng đi lên rồi khen rằng: "Bộ bộ sing liên hoa" (mỗi bước đi nở ra một hoa sen). Lăng đăng: Tiếng cổ, có nghĩa là đi từ từ chậm chậm, chập chờn mờ tỏ.
191 Chào mừng đón hỏi dò la:
192 Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây? Đào nguyên: Đời Tần có một người đánh cá chèo thuyền ngược theo một dòng suối đi mãi tới một khu rừng trồng toàn đào, thấy nơi đó có một cảnh sống tuyệt đẹp như nơi tiên ở. Người sau dùng chữ "nguồn đào" hay "động đào" để chỉ cảnh tiên.
193 Thưa rằng: Thanh khí xưa nay, Thanh khí: "Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu" (cùng một thứ tiếng thì ứng với nhau, cùng một loại khí thì tìm đến nhau).
194 Mới cùng nhau lúc ban ngày đã quên.
195 Hàn gia ở mé tây thiên, Hàn gia: Hèn là nghèo, gia là mọn, nhà xoàng, lạnhlẽo, nói khiêm tốn. Tây thiên: Phía trời đàng tây, hoặc cánh đồng phía tây.
196 Dưới dòng nước chảy bên trên có cầu.
197 Mấy lòng hạ cố đến nhau, Hạ cố: Trông xuống, chiếu cố đến nhau.
198 Mấy lời hạ tứ ném châu gieo vàng. Hạ tứ: Ban xuống, ban cho. Cả câu: Hai bài thơ của Kiều lời đẹp ý hay, thật quý báu như là ném cho những hạt châu, gieo cho những thỏi vàng vậy.
199 Vâng trình hội chủ xem tường,
200 Mà sao trong sổ đoạn trường có tên. Đoạn trường: Đứt ruột, chỉ sự đau đớn bi thương. Số đoạn trường: Sổ ghi tên những người phụ nữ bạc mệnh.
201 Âu đành quả kiếp nhân duyên, Quả kiếp nhân duyên: Quả là kết quả. Nhân là nguyên nhân, ý nói duyên (tốt). hay kiếp (xấu) cũng là có nhân với quả cả.
202 Cùng người một hội, một thuyền đâu xa!
203 Này mười bài mới mới ra,
204 Câu thần lại mượn bút hoa vẽ vời.
205 Kiều vâng lĩnh ý đề bài,
206 Tay tiên một vẫy đủ mười khúc ngâm.
207 Xem thơ nức nở khen thầm:
208 Giá đành tú khẩu cẩm tâm khác thường Tú khẩu, cẩm tâm: Miệng thêu, lòng gấm. ý nói thơ Kiều làm rất hay.
209 Ví đem vào tập Đoạn Trường
210 Thì treo giải nhất chi nhường cho ai.
211 Thềm hoa khách đã trở hài,
212 Nàng còn cầm lại một hai tự tình.
213 Gió đâu xịch bức mành mành,
214 Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao.
215 Trông theo nào thấy đâu nào
216 Hương thừa dường hãy ra vào đâu đây.
217 Một mình lưỡng lự canh chầy,
218 Đường xa nghĩ nỗi sau này mà kinh.
219 Hoa trôi bèo dạt đã đành,
220 Biết duyên mình, biết phận mình thế thôi!
221 Nỗi riêng lớp lớp sóng dồi,
222 Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn. Đòi cơn: Nhiều cơn.
223 Giọng Kiều rền rĩ trướng loan, Trưởng loan: Màn có thêu chim loan.
224 Nhà Huyên chợt tỉnh hỏi: Cơn cớ gì? Nhà huyên: chỉ vào bà mẹ. Huyên là cây hoa hiên, theo thuyết cổ, có tính chất làm quên sự lo phiền.
225 Cớ sao trằn trọc canh khuya,
226 Màu hoa lê hãy dầm dề giọt mưa? Hoa lê: Ví với người đẹp, giọt mưa ví với giọt nước mắt.
227 Thưa rằng: Chút phận ngây thơ,
228 Dưỡng sinh đôi nợ tóc tơ chưa đền. Dưỡng sinh: Nuôi dưỡng và sinh ra, chỉ công ơn cha mẹ.
229 Buổi ngày chơi mả Đạm Tiên,
230 Nhắp đi thoắt thấy ứng liền chiêm bao.
231 Đoạn trường là số thế nào,
232 Bài ra thế ấy, vịnh vào thế kia.
233 Cứ trong mộng triệu mà suy,
234 Phận con thôi có ra gì mai sau!
235 Dạy rằng: Mộng triệu cớ đâu, Mộng triệu: Điều thấy trong mộng.
236 Bỗng không mua não chuốc sầu nghĩ nao.
237 Vâng lời khuyên giải thấp cao,
238 Chưa xong điều nghĩ đã dào mạch Tương. MạchTương: Dòng nước mắt. Tương là tên một con sông ở tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc) chảy vào hồ Động Đình. Ngày xưa, vua Thuấn đi tuần thú, chết ở phương xa, hai người vợ vua là Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm, đến ngồi trên bờ sông Tương, khóc rất thảm thiết, nước mắt vẩy ra những khóm trúc xung quanh, làm cho trúc đó hoá thành những điểm lốm đốm. Về sau, các nhà văn thường dùng chữ mạch Tương, giọt Tương để chỉ nước mắt phụ nữ.
239 Ngoài song thỏ thẻ oanh vàng,
240 Nách tường bông liễu bay ngang trước mành.
241 Hiên tà gác bóng chênh chênh,
242 Nỗi riêng, riêng trạnh tấc riêng một mình.
243 Cho hay là thói hữu tình,
244 Đố ai gỡ mối tơ mành cho xong. Tơ mành: Sợi tơ mong manh. Hai chữ này chỉ chung Kiều và Kim Trọng để kết thúc đoạn nói về Kim Trọng.
245 Chàng Kim từ lại thư song, Thư song: Chỗ cửa sổ phòng đọc sách.
246 Nỗi nàng canh cánh bên lòng biếng khuây. Biếng khuây: Không khuây, không khuây.
247 Sầu đong càng lắc càng đầy, Sầu đong càng lắc càng đầy: ý nói mối sầu tương tư, càng ngày càng chồng chất lên mãi.
248 Ba thu dồn lại một ngày dài ghê.
249 Mây Tần khóa kín song the, Câu này ý nói: Mây che kín cửa sổ phòng Kiều.
250 Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao.
251 Tuần trăng khuyết, đĩa dầu hao, Tuần trăng khuyết: Khuyết hết cả một tuần trăng (cứ mỗi kì trăng tròn, gọi là một tuần trăng). Chỉ thời gian suốt cả tháng. Đĩa dầu hao: Đĩa dầu hao cạn (vì đèn bị thắp khuya).
252 Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
253 Buồng văn hơi giá như đồng,
254 Trúc se ngọn thỏ, tơ chùng phím loan. Bút để lâu không viết đến ngọn bị khô đi, đàn để lâu không gẩy đến dây bị chùng lại. ý nói Kim Trọng buồn trong tương tư, bỏ cả việc học hành và gẩy đàn.
255 Mành Tương phất phất gió đàn, Mạch Tương: Mành làm bằng trúc núi Tương.
256 Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình.
257 Vì chăng duyên nợ ba sinh, Ba sinh: Do chữ Tam sinh, nghĩa là ba kiếp luân chuyển: "Quá khứ", "hiện tại" và "vị lai" của con người.
258 Thì chi đem thói khuynh thành trêu ngươi.
259 Bâng khuâng nhớ cảnh, nhớ người,
260 Nhớ nơi kỳ ngộ vội dời chân đi. Kỳ ngộ: Sự gặp gỡ kì lạ.
261 Một vùng cỏ mọc xanh rì,
262 Nước ngâm trong vắt, thấy gì nữa đâu!
263 Gió chiều như gợi cơn sầu,
264 Vi lô hiu hắt như màu khảy trêu. Vĩ lô: Cây lau, cây sậy.
265 Nghề riêng nhớ ít tưởng nhiều,
266 Xăm xăm đè nẻo Lam Kiều lần sang. Lam Kiều: Vùng đất thuộc Lam Điền, tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Bùi Hàng, đời Đường, khi thi hỏng về, gặp Vân Kiều tặng bài thơ, có câu:"Lam Kiều tiện thị thần tiên quật, hà tất khi (kì) khu thướng ngọc kinh" (cầu Lam là cái tổ tiên đó, hà tất phải vất vả lên đế đô để thi cử làm gì). Về sau, Hàng đi qua một nơi, gọi là Lam Kiều, khát nước, vào xin nước một nhà bà lão gần đấy thấy Vân Anh, (em Vân Kiều), cháu gái bà, người tuyệt đẹp, Hàng ngỏ ý cầu hôn, bà lão bảo: Bà cân dùng cối ngọc và chày ngọc để giã thuốc huyền sương (thứ thuốc tiên), nếu có những thứ ấy làm sính lễ sẽ gả con cho. Hàng về tìm được cối và chày ngọc đưa đến, lại ở đấy giã thuốc cho bà lão một trăm ngày, rồi lấy Vân Anh và sau hai vợ chồng cùng lên cõi tiên. ở đây, Lam Kiều chỉ chỗ nhà ở của Kiều.
267 Thâm nghiêm kín cổng cao tường,
268 Cạn dòng lá thắm dứt đường chim xanh. Lá thắm: Do chữ Hồng diệp. vu Hựu, đời Đường, một hôm đi chơi, bắt được chiếc lá đỏ trôi trên ngòi nước từ cung vua chảy ra. Trên lá có đề một bài thơ, Vu Hựu bèn để lại hai câu thơ vào chiếc lá đỏ khác, rồi đem thả nơi đầu ngòi nước, cho trôi vào cung vua. Hàn thị, người cung nữ thả lá đỏ khi trước, lại bắt được lá đỏ của Vu Hựu. Về sau, nhờ dịp vua phóng thích cung nữ, Vu Hựu lấy được Hàn thì. Chim xanh: Người ta thường gọi sứ giả đưa tin là "chim xanh" (thanh điểu). Câu này ý nói: Khó thông tin tức mối manh với Thuý Kiều.
269 Lơ thơ tơ liễu buông mành,
270 Con oanh học nói trên cành mỉa mai.
271 Mấy lần cửa đóng then cài,
272 Đầy thềm hoa rụng, biết người ở đâu?
273 Tần ngần đứng suốt giờ lâu,
274 Dạo quanh chợt thấy mái sau có nhà.
275 Là nhà Ngô Việt thương gia, Ngô Việt thương gia: Nhà đi buôn ở nước Ngô, nước Việt (đi buôn xa, nay Ngô, mai Việt).
276 Buồng không để đó người xa chưa về.
277 Lấy điều du học hỏi thuê,
278 Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang.
279 Có cây, có đá sẵn sàng, Đá: Đây chỉ núi giả (ta thường gọi là núi non bộ) do những tảng đá xếp thành.
280 Có hiên Lãm thúy, nét vàng chưa phai. Lâm Thuý: tên cái hiên của nhà Ngô Việt thương gia. Vì có chữ Thuý trùng với một chữ trong tên Kiều nên Kim Trọng mới mừng thầm là có duyên số tiên định.
281 Mừng thầm chốn ấy chữ bài, Bài: Bày ra, xếp đặt sẵn, do chữ "an bài".
282 Ba sinh âu hẳn duyên trời chi đây.
283 Song hồ nửa khép cánh mây, Song hồ: Cửa sổ dán giấy. Cành mây: Cánh cửa sổ.
284 Tường đông ghé mắt ngày ngày hằng trông.
285 Tấc gang đồng tỏa nguyên phong, Cửa động bị khoá, cửa nguồn bị ngăn, cho nên tuy nhà Kiều gần có ganh tấc, mà vẫn là xa xôi cách trở.
286 Tuyệt mù nào thấy bóng hồng vào ra.
287 Nhẫn từ quán khách lân la, Nhẫn từ: Kể từ khi (tiếng cổ).
288 Tuần trăng thấm thoắt nay đà thèm hai.
289 Cách tường phải buổi êm trời,
290 Dưới đào dường có bóng người thướt tha.
291 Buông cầm xốc áo vội ra,
292 Hương còn thơm nức, người đà vắng tanh.
293 Lần theo tường gấm dạo quanh, Tường gấm: Do chữ cẩm tường, bức tường gạch có vẽ hoa như gấm (một cách tô điểm văn hoa).
294 Trên đào nhác thấy một cành kim thoa. Kim thoa: Cái thoa gài tóc bằng vàng.
295 Giơ tay với lấy về nhà:
296 Này trong khuê các đâu mà đến đây? Khuê các: Buồng lầu, nơi ở của con gái nhà sang trọng.
297 Ngẫm âu người ấy báu này,
298 Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!
299 Liền tay ngắm nghía biếng nằm,
300 Hãy còn thoang thoảng hương trầm chưa phai.
301 Tan sương đã thấy bóng người,
302 Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ.
303 Sinh đà có ý đợi chờ,
304 Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng:
305 Thoa này bắt được hư không, Hư không: Bỗng không, tự nhiên.
306 Biết đâu Hợp Phố mà mong châu về? Hợp phố: Tên một quận, trước thuộc Giao châu, nay thuộc tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc). Theo Hán sử: Nguyên xưa, ven bể quận Hợp Phố có loại trai sinh ra một loại ngọc quý, nhưng vì bọn quan tước tham nhũng, bắt nhân dân đi mò ngọc cho chúng, dân tình khổ cực, nên ngọc trai biến đi nơi khác hết. Về sau, có vị quan thanh liêm là Mạnh Thường đến nhận chức, cải cách, chính sự, bãi lệnh mò ngọc, thì ngọc trai lại dần dần trở về. Do đó, người ta thường nói "Châu về Hợp Phố" (Hợp Phố châu hoàn), để chỉ những trường hợp vật báu đã bị mất lại trở về với chủ cũ.
307 Tiếng Kiều nghe lọt bên kia:
308 Ơn lòng quân tử sá gì của rơi.
309 Chiếc thoa nào của mấy mươi,
310 Mà lòng trọng nghĩa khinh tài xiết bao?
311 Sinh rằng: Lân lý ra vào Lân lý: Nguyên nghĩa là xóm và làng, đây dùng như nhgiã bà con láng giềng.
312 Gần đây nào phải người nào xa xôi,
313 Được rầy nhờ chút thơm rơi.
314 Kể đà thiểu não lòng người bấy nay!
315 Bấy lâu mời được một ngày,
316 Dừng chân, gạn chút niềm tây gọi là... Niềm tây: Nỗi lòng, chút tâm sự riêng.
317 Vội về thêm lấy của nhà,
318 Xuyến vàng đôi chiếc khăn là một vuông.
319 Thang mây dón bước ngọn tường, Thang mây: Do chữ vân thê, nguyên là một khí cụ của quân đội thời dùng để trèo vào thành bên địch (thanh cao, tưởng có thể bắc tới mây được).
320 Phải người hôm nọ rõ ràng chẳng nhe. Người hôm nọ: Người gặp gỡ hôm đi thanh minh. Chăng nhe: (từ cổ) phải chăng là.
321 Sượng sùng giữ ý rụt rè.
322 Kẻ nhìn rõ mặt, người e cúi đầu. Kẻ: Chỉ Kim Trọng. Người: Chỉ Kiều, Kim Trọng nhìn tỏ mặt Kiều, mà Kiều thì e thẹn cúi đầu.
323 Rằng: Từ ngẫu nhĩ gặp nhau, Ngẫu nhĩ: Tình cờ, cũng như "ngẫu nhiên".
324 Thầm trông trộm nhớ, bấy lâu đã chồn. Chồn: Mệt mỏi, ý nói sốt ruột lắm.
325 Xương mai tính đã rũ mòn. Xương mai: Xương vóc gầy. Cây mai, thân và cành nhỏ bé, nên người ta thường gọi những người xương vóc gầy là mai cốt (xương mai). Rũ mòn: Gầy mòn, ý nói tương tư mà gầy mòn đi.
326 Lần lừa ai biết hãy còn hôm nay!
327 Tháng tròn như gửi cung mây, Suốt tháng tâm thần như gửi ở cung trăng.
328 Trần trần một phận ấp cây đã liều!
329 Tiện đây xin một hai điều,
330 Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng? Đài gương: Giá cao,, trên mặt chiếc gương lớn và hộp đựng đồ trang sức của phụ nữ. Trong văn cổ, thường mượn chữ đài gương để chỉ người phụ nữ. Dấu bèo: ý nói thân phận hèn mọn như cánh bèo trôi nổi mặt nước. ở đây là lời Kim Trọng tự nói khiêm.
331 Ngần ngừ nàng mới thưa rằng:
332 Thói nhà băng tuyết, chất hằng phỉ phong Băng tuyết: ý nói trong sạch, thanh bạch. Chất hằng: Một thể chất lúc nào cũng như thế. Phỉ phong: Hai thứ rau, người ta dùng lá và củ nấu canh hoặc muối dưa làm món ăn hàng ngày. ý cả câu: Gia đình vốn thanh bạch, mà tư chất thì cũng bình thường, không có tài sắc gì, lời Kiều tự khiêm (Bốn chữ trên nói gia đình, bốn chữ dưới nói bản thân).
333 Dấu khi lá thắm, chỉ hồng Lá thắm: đã giảng ở câu 268. Chỉ hồng: Do chữ xích thằng (sợi dây đỏ) theo sách Tục U quái lục: Vì Cố, người đời Đường, đi cầu hôn, vào nghỉ quán trọn, gặp một ông già ngồi dưới bóng trăng, mở cái túi vải, đang kiểm sổ sách. Vi Cố hỏi, ông già trả lời: Đây là sổ sách hôn nhân, và chiếc túi vải này dùng đựng những dây đỏ (xích thằng) dùng để buộc chân đôi vợ chồng. Do điển này mà có những danh từ: "chỉ hồng", "tơ hồng" để chỉ việc nhân duyên vợ chồng, và "Nguyệt lão" (ông già dưới trăng), "Trăng già", "ông Tơ", để chỉ người làm mối mai. Tục xưa: khi cưới vợ, thường làm lễ Tơ hồng, tức là tế ông Nguyệt lão xe dây đỏ đó.
334 Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha.
335 Nặng lòng xót liễu, vì hoa,
336 Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa!
337 Sinh rằng: Rày gió mai mưa,
338 Ngày xuân đã dễ tình cờ mấy khi!
339 Dầu chăng xét tấm tình si. Dù chăng: Dù chẳng, nếu không.
340 Thiệt đây mà có ích gì đến ai?
341 Chút chi gắn bó một hai,
342 Cho đành, rồi sẽ liệu bài mối manh.
343 Khuôn thiêng dù phụ tấc thành, Khuôn thiêng: Khuôn tạo hóa, chỉ trời. Khuôn do chữ quân, tức là cái khuôn dùng để nặn đồ gốm. Người xưa ví tạo hoá đúc nặn ra muôn vật như cái khuôn nặn ra các đồ gốm, nên gọi Tạo hoá là Hồng quân, Thiên quân, (khuôn trời). Tấc thành: Tấc lòng chân thành, thành thực.
344 Cũng liều bỏ quá xuân xanh một đời.
345 Lượng xuân dù quyết hẹp hòi. Lượng xuân: Nguyên nghĩa là tấm lòng tốt đẹp như mùa xuân. Còn có thể giải là tấm lòng của người phụ nữ trẻ tuổi, xinh đẹp.
346 Công đeo đuổi chẳng thiệt thòi lắm ru!
347 Lặng nghe lời nói như ru,
348 Chiều xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng... Chiều xuân: Như nói tứ xuân (Xuân tứ). Nét thu: Nét thu ba, nét sóng thu, tức con mắt.
349 Rằng: Trong buổi mới lạ lùng,
350 Nể lòng có lẽ cầm lòng cho đang!
351 Đã lòng quân tử đa mang,
352 Một lời vâng tạc đá vàng thủy chung. Đá vàng: Do chữ kim thạch. Kim đây là loài đồng, chỉ chuông đồng, vạc đồng;thạch là đá, chỉ bia đá. Thời xưa, những việc lớn, những công đức hay châm ngôn, thường được người ta khắc vào chuông đồng, bia đá, để lưu truyền thiên cổ. Do đó, người ta thường dùng danh từ kim thạch để chỉ cái gì có tính cách vĩnh cửu bền vững, không thay đổi được, như ghi tạc vào vàng đá. Đây nói: Kiều nhận lời gắn bó với Kim Trọng, và xin ghi tạc lời đó, như ghi tạc vào vàng đá.
353 Được lời như cởi tấm lòng,
354 Giở kim thoa với khăn hồng trao tay.
355 Rằng: Trăm năm cũng từ đây,
356 Của tin, gọi một chút này làm ghi!
357 Sẵn tay khăn gấm quạt quỳ Bả: Bản Trương Vĩnh Ký chú Bả là cầm. Quạt hoa quì: Chiếc quạt bằng lá quì vẽ hoa.
358 Với cành thoa ấy, tức thì đổi trao.
359 Một lời gắn bó tất giao, Tất giao: Sơn và keo, chỉ tình nghĩa gắn bó bền chặt với nhau như hai chất keo và sơn.
360 Mé sau dường có xôn xao tiếng người
361 Vội vàng lá rụng hoa rơi,
362 Chàng về viện sách, nàng dời lầu trang. Lầu trang: Lầu trang điểm, chỉ dùng lầu ở của phụ nữ.
363 Từ phen đá biết tuổi vàng, Đá biết tuổi vàng: Muốn xem vàng bao nhiêu tuổi, xấu tốt thế nào, người ta thường dùng thứ đá cuội đen để thử, gọi là hòn đá thử vàng. Qua sự trao đổi, Kim-Kiều đã hiểu biết và yêu nhau, như đá biết rõ tuổi vàng.
364 Tình càng thấm thía, dạ càng ngẩn ngơ.
365 Sông Tương một dải nông sờ, Sông thương: Hai câu này lấy ý ở bài thơ trong Tình sử:" Quân tại Tương giang đầu, Thiếp tại Tương giang vĩ, Tương tư bất tương kiến, Đồng ẩm Tương giang thuỷ". Dịch nghĩa: Chàng ở đầu sông Tương, Thiếp ở cuối sông Tương, Nhớ nhau mà chẳng thấy nhau, Cùng uống nước sông Tương.
366 Bên trông đầu nọ, bên chờ cuối kia.
367 Một tường tuyết trở sương che. Tuyết trở sương che: ý nói bức tường của nhà Kiều với nhà Kim Trọng như có tuyết sương ngăn trở, che khuất khiến cho hai người gặp gỡ trao đổi tin tức.
368 Tin xuân đâu dễ đi về cho năng.
369 Lần lần ngày gió đêm trăng,
370 Thưa hồng rậm lục đã chừng xuân qua. Thư hồng rầm lục: Màu đỏ ít đi, màu xanh rậm thêm, tức là mùa xuân sắp qua, mùa hạ sắp tới.
371 Ngày vừa sinh nhật ngoại gia
372 Trên hai đường, dưới nữa là hai em. Hai đường: Do chữ song đường (xuân đường và huyền đường) chỉ cha mẹ.
373 Tưng bừng sắm sửa áo xiêm,
374 Biện dâng một lễ, xa đem tấc thành.
375 Nhà lan thanh vắng một mình, Nhà lan: Do chữ lan thất.
376 Ngẫm cơ hội ngộ đã dành hôm nay.
377 Thời trân thức thức sẵn bày, Thì trân: Những thức ăn quý đương mùa. Thuý Kiều mang sang để tiếp Kim Trọng. Chú ý, "sẵn bày" ở đây không phải là bày biện ra bàn ở nhà Kiều.
378 Gót sem thoăn thoắt dạo ngay mái tường.
379 Cách hoa sẽ dặng tiếng vàng,
380 Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông:
381 Trách lòng hờ hững với lòng,
382 Lửa hương chốc để lạnh lùng bấy lâu. Lửa hương: Hai chữ này thường dùng để chỉ tình duyên vợ chồng.
383 Những là đắp nhớ đổi sầu,
384 Tuyết sương nhuốm nửa mái đầu hoa râm. Hoa râm: Hoa cây râm, sắc trắng, ví mái tóc lốm đốm bạc trông như những chẫm hoa râm.
385 Nàng rằng: Gió bắt mưa cầm,
386 Đã cam tệ với tri âm bấy chầy. Tri âm: Hiểu biết tiếng đàn. Đời Xuân Thu, Bá Nha, một người giỏi đàn, Chung Tử Kỳ, một người giỏi nghe đàn, đều nổi tiếng, cùng làm bạn với nhau. Tử Kỳ hiểu được tâm hồn bạn trong tiếng đàn, khi Bá Nha gẩy đàn, như núi Thái - Sơn", khi Bá Nha nghĩ đến dòng chảy (lưu thuỷ), thì Tử Kỳ khen: "Tiếng đàn cuồn cuộn như sông Giang, sông Hà". Sau Tử Kỳ chết, Bá Nha đứt dây, đập đàn ra, và than rằng: "Trong thiên hạ không còn ai là tri âm (người hiểu biết tiếng đàn của mình) nữa". Về sau, tri âm dùng để chỉ bạn thân, tri kỷ, hoặc bạn tình.
387 Vắng nhà được buổi hôm nay,
388 Lấy lòng gọi chút ra đây tạ lòng!
389 Lần theo núi giả đi vòng, Núi giả: Chữ Hán là giả sơn, tức là núi non bộ.
390 Cuối tường dường có nẻo thông mới rào.
391 Xắn tay mở khóa động đào, Động đào: Tức động Đào nguyên.
392 Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai. Thiên thai: Tên một núi ở tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, Tương truyền đời Hán, Lưu Thần và Nguyễn Triệu lên núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên nữ rồi cùng nhau kết duyên ở đấy.
393 Mặt nhìn mặt, càng thêm tươi,
394 Bên lời vạn phúc, bên lời hàn huyên. Vạn phúc: Lời chào hỏi chúc mừng khi gặp nhau. Hàn thuyên: lạnh ấm, lời hỏi thăm sức khỏe.
395 Sánh vai về chốn thư hiên,
396 Góp lời phong nguyệt, nặng nguyền non sông. Phong nguyệt: Lời thơ trăng gió vui chơi. Non sông: Lấy núi sông mà nguyền ước (sông cạn, núi mòn, lời thề cũng không thay đổi).
397 Trên yên, bút giá thi đồng, Yên: Bàn sách, Bút giá: Cái giá để gác bút. Thi đồng: Cái ống đựng thơ.
398 Đạm thanh một bức tranh tùng treo trên. Đạm thanh: Màu xanh nhạt, chỉ màu bức tranh cây thông của Kim Trọng.
399 Phong sương được vẻ thiên nhiên, Phong sương: Gió và sương. Bức tranh cây thông vẽ rất tự nhiên như có đượm cả phong sương.
400 Mặn khen nét bút càng nhìn càng tươi.
401 Sinh rằng: Phác họa vừa rồi,
402 Phẩm đề xin một vài lời thêm hoa. Phẩm đề: Đề lợi vịnh bức tranh. Thêm hoa: Thêm vẻ đẹp. ý nói bức tranh mới vẽ xong, xin đề mấy vần thơ cho tăng thêm vẻ đẹp.
403 Tay tiên gió táp mưa sa, Tay tiên: Bàn tay người đẹp, người tiên.
404 Khoảng trên dừng bút thảo và bốn câu.
405 Khen: Tài nhả ngọc phun châu, Nhả ngọc phun châu: Tài xuất khẩu thành thơ hay, như nhả ra ngọc, phun ra châu.
406 Nàng Ban ả Tạ cũng đâu thế này! Nàng Ban: Nàng Ban Chiêu, đời Đông Hán. Nàng học rộng tài cao, được vua Hán vời đến giúp soạn sách. Ả Tạ: Nàng Tạ Đạo Uẩn, đời Tấn, là người thông minh, có học thức.
407 Kiếp tu xưa ví chưa dày,
408 Phúc nào nhắc được giá này cho ngang!
409 Nàng rằng: Trộm liếc dung quang,
410 Chẳng sân bội ngọc cũng phường kim môn. Ngọc bội: Đồ đeo bằng ngọc. Chữ dùng chỉ chung người ta đã hiển đạt và có quan chức. Kim môn: Tức Kim mã môn nói tắt, tên cửa cung Vị ương của vua nhà Hán (cửa cung có để tượng ngựa đồng nên gọi là Kim mã). Đời Hán Vũ Đế, thường cho những người có văn tài đến đợi ở đây, để chờ nhà vua hỏi han về chính sự. Kiều muốn nói Kim Trọng không là nhà quan cũng là người học cao.
411 Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn,
412 Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay? Khuôn xanh: Cũng như khuôn thiêng, sự sắp đặt của trời.
413 Nhớ từ năm hãy thơ ngây,
414 Có người tướng sĩ đoán ngay một lời: Tướng sĩ: Thày xem tướng.
415 Anh hoa phát tiết ra ngoài, Anh hoa: Những cái tinh hoa tốt đẹp.
416 Nghìn thu bạc mệnh một đời tài hoa.
417 Trông người lại ngẫm đến ta,
418 Một dầy một mỏng biết là có nên?
419 Sinh rằng: Giải cấu là duyên, Giải cấu: Cuộc gặp gỡ tình cờ.
420 Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Nhân định thắng thiên: ý nói: Người ta cũng có thể làm thay đổi được cả số trời.
421 Ví dù giải kết đến điều, Giải kết: Giải là cởi, kết là mối buộc. ý nói, chúng ta đã ràng buộc với nhau, nếu có sự chia rẽ thì quyết liều thân để giữ lời vàng đá.
422 Thì đem vàng đá mà liều với thân!
423 Đủ điều trung khúc ân cần, Trung khúc: Những sự uỷ khúc ở trong lòng, như nói tâm tình, tâm sự.
424 Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng. Tàng tàng: Say say, ngà ngà.
425 Ngày vui ngắn chẳng đầy gang, Giang: ý nói ngày ngắn lắm.
426 Trông ra ác đã ngậm gương non đoài.
427 Vắng nhà chẳng tiện ngồi dai,
428 Giã chàng nàng mới kíp dời song sa. Song sa: Cửa sổ có che vải sa, cũng như song the, chỉ phòng ở của Kiều.
429 Đến nhà vừa thấy tin nhà,
430 Hai thân còn dở tiệc hoa chưa về. Hai thận: Cha mẹ, do chữ song thân, tức thân phụ (cha) và thân mẫu (mẹ).
431 Cửa ngoài vội rủ rèm the,
432 Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình.
433 Nhặt thưa gương giọi đầu cành, Nhặt thưa: Mau và thưa, chỉ ánh trăng. ánh trăng giọi bóng cành lá cây xuống làm cho mặt đất chỗ sáng, chỗ tối.
434 Ngọn đèn trông lọt trướng huỳnh hắt hiu. Trướng huỳnh: Trường là cái màn, huỳnh là con đom đóm. Đời Tấn, Xa Dận ham học, nhà nghèo, đêm khôn có đèn, phải bắt con đom đóm đựng vào túi lụa thưa để mà đọc sách. Chỉ phòng học của Kim Trọng.
435 Sinh vừa tựa án thiu thiu,
436 Dở chiều như tỉnh dở chiều như mê.
437 Tiếng sen sẽ động giấc hòe, Tiếng sen: Bước chân của người đẹp. Giấc hoè: Theo sách Nam kha ký: Thuần Vu Phần đời Đường, ngày sinh nhật, uống rượu say nằm ngủ dưới gốc cay hoè già ở phía nam nhà ông, liền mộng thấy đến một nước gọi là "Đại Hoè An", được vua nước ấy gả công chúa, và cho làm quan Thái thú quận Nam Kha, vinh hiển hơn hai mươi năm. Khi tỉnh dậy, chỉ thấy dưới gốc hoè một tổ kiến lớn, trong có con kiến chúa, mới hiểu đó là nước và vua Hoè An (gốc hoè yên ổn), còn Nam kha tức là cành hoè phía nam nhằm thẳng xuống tổ kiến. Do đó, người ta nói "giấc Nam kha" hay "giấc hoè" để chỉ cuộc phú quý hư ảo.
438 Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần. Đây nói, Kim Trọng sực tỉnh thấy ánh trăng đưa bóng hoa lê tới gần.
439 Bâng khuâng đỉnh Giáp non Thần, Đỉnh Giáp: Đỉnh núi Vu Giáp (hay Vu Sơn). Vua Sở Hoài Vương đi chơi quán Cao Đường, mộng thấy một người đàn bà đẹp, và tự xưng là thần núi Vu Sơn, sớm làm mây, chiều làm mưa. Do tích này, người ta thường dùng chữ "mây mưa" để chỉ việc ân ái giữa trai gái. Non thần: núi Thần nữ chỗ ở của nàng tiên gặp vua Sở nói trên.
440 Còn ngờ giấc mộng đêm xuân mơ màng.
441 Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường,
442 Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa.
443 Bây giờ rõ mặt đôi ta,
444 Biết đâu rồi nữa chẳng là chiêm bao?
445 Vội mừng làm lễ rước vào,
446 Đài sen nối sáp song đào thêm hương. Đài sen: Cái để thắp nên làm hình hoa sen. Song đào: Chỗ cửa sổ có trồng cây đào.
447 Tiên thề cùng thảo một chương, Tiên thề: Giấy hoa tiên (giấy viết thư từ có vẽ hoa ghi chép lời thề).
448 Tóc mây một món dao vàng chia đôi.
449 Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
450 Đinh ninh hai mặt một lời song song.
451 Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
452 Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương. Đồng: Đồng tâm, cùng một lòng với nhau. Người xưa, thường tặng nhau dây lưng gấm, kết thành vòng hồi văn, ngụ ý thân yêu quấn quýt, gọi là cái "đồng tâm kết".
453 Chén hà sánh giọng quỳnh tương, Hà: Ráng mặt trời. Chén hà do chữ hà bôi thứ chén bằng ngọc màu ráng đỏ, đây dùng nói chén quý. Quỳnh tương: nước ngọt, ví thứ rượu ngon quý.
454 Dải là hương lộn bình gương bóng lồng. Kiều với Kim Trọng, ngồi kề nhau, mùi hương quần áo như là hoà lộn với nhau, mà trong binh gương, bóng hai người cũng như lồng đôi với nhau.
455 Sinh rằng: Gió mát trăng trong,
456 Bấy lâu nay một chút lòng chưa cam.
457 Chày sương chưa nện cầu Lam, Chày sương, cầu Lam: đã chú ở câu 266
458 Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng? Sàm sỡ: Lả lơi không đứng đắn.
459 Nàng rằng: Hồng diệp xích thằng, Hồng điệp, xích thằng: xen câu 268 và 238
460 Một lời cũng đã tiếng rằng tương tri. Tương tri: Biết lòng nhau, thông cảm nhau.
461 Đừng điều nguyệt nọ hoa kia. Nguyệt nọ, hoa kia: Chuyện trai gái bất chính.
462 Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai.
463 Rằng: Nghe nổi tiếng cầm đài, Cầm đài: Cái đài ngồi gẩy đàn của Tư Mã Tương Như, một nhà giỏi đàn đời Tây Hán.
464 Nước non luống những lắng tai Chung Kỳ. Nước non: Do chữ lưu thuỷ, cao sơn (nước chảy, non cao), những tiếng đàn của Bá Nha mà Chung Tử Kỳ nghe và phân biệt được. Đây Kim Trọng đề cao Kiều lên ngang tài với Bá Nha, và tự cho mình là Chung Kỳ.
465 Thưa rằng: Tiện kỹ sá chi, Tiện Kỹ: Nghề mọn, lời nói nhún.
466 Đã lòng dạy đến dạy thì phải vâng.
467 Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Cầm trăng: Tức nguyệt cầm, ta gọi là đàn nguyệt.
468 Vội vàng Sinh đã tay nâng ngang mày. Tây nâng ngang mày: Thái độ tỏ ý trân trọng.
469 Nàng rằng: Nghề mọn riêng tay,
470 Làm chi cho bận lòng này lắm thân! Bận lòng: khó nghĩ. Lắm thân: tiếng cổ, có nghĩa là "lẵm thay".
471 So dần dây vũ dây văn, Vũ, văn: Vũ là dây đàn to, văn là dây đàn nhỏ.
472 Bốn dây to nhỏ theo vần cung thương. Cung thương: xem câu 31
473 Khúc đâu Hán Sở chiến trường, Hán sở chiến trường: Bãi chiến trường giữa đời Hán, và nước Sở. Cuối đời Tần, Lưu Bang (Hán Cao tổ) và Hạng Vũ (Sở Bá vương) đánh nhau nhiều trận kịch liệt.
474 Nghe ra tiếng sắt tiếng vàng chen nhau. Tiếng sắt, tiếng vàng: Tiếng khí giới bằng sắt, bằng kim loại va chạm xô xát nhau.
475 Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, Tư mã phượng cầu: Tư mã Tương Như người đời Hán, có văn tài, ở đất Lâm Cùng, Trác Vương Tôn, có con gái là Văn Quân, người đẹp mà mới goá chồng. Tương Như gẩy khúc đàn "Phượng cầu hoàng" để tỏ tình với Văn Quân cảm tiếng đàn, đêm ấy, bỏ nhà trốn theo Tương Như.
476 Nghe ra như oán như sầu phải chăng!
477 Kê Khang này khúc Quảng lăng, Kê Khang, Quảng Lăng: Kê Khang, đời Tam quốc, đêm gẩy đàn cầm ở đình Hoa Dương, bỗng có người khách lạ tới dạy cho khúc "Quảng Lăng tán", âm điệu tuyệt hay.
478 Một rằng lưu thủy hai rằng hành vân. Lưu thuỷ, hành vân: Nước chảy, mây bay. ý nói khúc đàn thanh thoát lưu loát.
479 Quá quan này khúc Chiêu Quân, Quá quan: Đi qua cửa ải. Chiêu Quân: Tên chữ của Vương Tường, một cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị gả cho chúa Hung nô, khi qua cửa ải, vào đất Hung nô, Chiêu Quân thường gảy khúc đàn tỳ bà để tỏ nỗi lòng nhớ nhà, nhớ nước.
480 Nửa phần luyến chúa nửa phần tư gia.
481 Trong như tiếng hạc bay qua,
482 Đục như tiếng suối mới sa nửa vời. Tiếng suối: Tiếng đàn nghe đục như tiếng ầm ì của dòng suối dội ở lưng chừng núi xuống.
483 Tiếng khoan như gió thoảng ngoài,
484 Tiếng mau sầm sập như trời đổ mưa.
485 Ngọn đèn khi tỏ khi mờ,
486 Khiến người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
487 Khi tựa gối khi cúi đầu,
488 Khi vò chín khúc khi chau đôi mày. Chín khúc: Chỉ các khúc ruột chứ không nhất thiết phải đúng chín khúc ruột.
489 Rằng: Hay thì thật là hay,
490 Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!
491 Lựa chi những bậc tiêu tao, Tiêu tao: Chính nghĩa là tiêu điều, thê hương, đây dùng chỉ tiếng đàn buồn rầu, sầu não.
492 Dột lòng mình cũng nao nao lòng người? Dột: ủ dột. Nao nao: Xao xuyến, đau xót.
493 Rằng: Quen mất nết đi rồi,
494 Tẻ vui thôi cũng tính trời biết sao!
495 Lời vàng âm lĩnh ý cao, Lời vàng: Lời khuyên quí giá.
496 Họa dần dần bớt chút nào được không.
497 Hoa hương càng tỏ thức hồng, Hoa hương: Hoá có hương thơm. Thức hồng: vẻ hồng. Càng đàn, càng thơ, nàng Kiều càng đẹp, tình ý đôi bên càng nồng nàn.
498 Đầu mày cuối mắt càng nồng tấm yêu.
499 Sóng tình dường đã xiêu xiêu,
500 Xem trong âu yếm có chiều lả lơi.
501 Thưa rằng: đừng lấy làm chơi, Làm chơi: Xem vấn đề là thường, không quan trọng.
502 Dẽ cho thưa hết một lời đã nao!
503 Vẻ chi một đóa yêu đào, Yêu đào: Cây đào non, lấy chữ ở thơ "Đào yêu", Kinh thi: Đào chi yêu yêu (cây đào non mơn mởn) ví với người con gái trẻ mà đẹp, đã đến tuổi đi lấy chồng.
504 Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh.
505 Đã cho vào bậc bố kinh, Bố kinh: Bố là vải, kinh là cây kinh, một loại cây mọc thành cụm, hoa màu tía nhạt, cành và thân cứng rắn, thời xưa, những phụ nữ nghèo thường dùng cành nó làm trâm cài tóc. Ý Kiều nói: Đã cho vào hang người vợ chính thức như hạng bố kính thời xưa (không phải là nhân tình, nhân ngãi).
506 Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầụ Tòng phu: Theo chồng, chí cái đạo làm vợ, theo quan niệm Nho giáo xưa.
507 Ra tuồng trên Bộc trong dâu, Trên Bộc, trong dâu: Trong bãi dâu, trên sông Bộc. Xưa ở nước Vệ, đời Xuân Thu, có tục trai gái hẹn hò, tụ hội nhau ở bãi dâu trên sông Bộc để hát hổng, đùa bỡn, làm việc dâm đãng.
508 Thì con người ấy ai cầu làm chi!
509 Phải điều ăn xổi ở thì,
510 Tiết trăm năm nỡ bỏ đi một ngày!
511 Ngẫm duyên kỳ ngộ xưa nay, Kỳ ngộ: Cuộc gặp gỡ kỳ lạ, chỉ cuộc nhân duyên tốt đẹp của đôi tài tử giai nhân.
512 Lứa đôi ai đẹp lại tày Thôi Trương. Thôi, Trương: Theo Tây sương ký: Thôi Oanh và Trương Cung, tên tự là Quân Thuỵ, đời Đường, là đôi trai tài, gái sắc, đẹp đôi, vừa lứa, đã gặp gỡ và yêu nhau ở chái tây chùa Phổ Cứu, đất Bổ Đông, nhưng vì đã đi lại ăn nằm với nhau, nên về sau chán nhau mà bỏ nhau. Đá vàng: Đây chỉ tình vợ chồng chung thuỷ, đoan chính.
513 Mây mưa đánh đổ đá vàng,
514 Quá chiều nên đã chán chường yến anh. Yến anh: Đây ví với cặp trai gái.
515 Trong khi chắp cánh liền cành, Chắp cánh liền cành: Nói khi ăn nằm ân ái với nhau. Theo bài Trường hận ca của Bạch Cư Dị, vua Đường Huyền tông và Đường quý phi nguyện với nhau trong đêm "thất tịch": Tại thiên nguyện tác ti dực diểu, tại địa nguyên vi liên lí chí (trên trời nguyện làm đôi chim liền cánh, dưới đất nguyện là hai cây liền cành).
516 Mà lòng rẻ rúng đã dành một bên.
517 Mái tây để lạnh hương nguyền, Mái tây: Do chữ tây sương, tức chái tây chùa Phổ Cứu, nơi Thôi, Trương gặp gỡ nhau. Hương nguyền: Nén hương để thề nguyền.
518 Cho duyên đằm thắm ra duyên bẽ bàng.
519 Gieo thoi trước chẳng giữ giàng, Gieo thoi: Các sách thường dẫn điển sau đây: Tạ Côn đời Tấn, ghẹo người con gái đang ngồi dệt cửi, bị cô ta cần cái thoi ném vào mặt, gẫy mất hai cái răng (theo Tấn thư).
520 Để sau nên thẹn cùng chàng bởi ai?
521 Vội chi liễu ép hoa nài,
522 Còn thân ắt lại đền bồi có khi!
523 Thấy lời đoan chính dễ nghe,
524 Chàng càng thêm nể thêm vì mười phân. Vì: Nể, tiếng cổ, cũng có nghĩa là yêu (yêu vì Nặng lòng xót liễu vì hoa).
525 Bóng tàu vừa lạt vẻ ngân, Bóng tầu: Bóng mái nhà (Tàu: Miếng gỗ dài đặt dọc ở mái hiên, để đỡ lấy mái nhà, gần chỗ giọt tranh). Vẻ ngân: Vẻ sáng như bạc, chỉ ánh trăng.
526 Tin đâu đã thấy cửa ngăn gọi vào.
527 Nàng thì vội trở buồng thêu,
528 Sinh thì dạo gót sân đào bước ra. Sân đào: Sân có trồng cây đào.
529 Cửa sài vừa ngỏ then hoa,
530 Gia đồng vào gởi thư nhà mới sang. Gia đồng: Người phục dịch công việc ở trong nhà. Thúc phụ: Chú ruột. Từ đường: Từ bỏ nơi nhà ở, tức là chết.
531 Đem tin thúc phụ từ đường,
532 Bơ vơ lữ thấn tha hương đề huề. Lữ thấn: Chết nhưng mà chưa chôn, quan tài còn quàn tạm ở nơi đất khách.
533 Liêu dương cách trở sơn khê, Liêu dương: Tên đất, nay thuộc tỉnh Liêu Ninh (Trung Quốc) nơi chú ruột Kim Trọng chết. Sơn khê: Núi và khe ngòi.
534 Xuân đường kíp gọi sinh về hộ tang. Xuân đường: Cha, Xuân là một loại cây sống rất lâu. Người sau nhân gọi cha là xuân hay Xuân đường (nhà xuân), có ý mong cha được tuổi thọ như cây ấy. Hộ tang: Trông coi việc tang.
535 Mảng tin xiết nỗi kinh hoàng, Mảng: Tiếng cổ. Mảng tin: Mới chợt nghe tin.
536 Băng mình lẻn trước đài trang tự tình. Đài trang: Do chữ trang đài, nơi trang điểm của phụ nữ.
537 Gót đầu mọi nỗi đinh ninh, Đinh ninh: cẵn kẽ, đến nơi đến chốn.
538 Nỗi nhà tang tóc nỗi mình xa xôi:
539 Sự đâu chưa kịp đôi hồi, Đôi hồi: Giãi bày, trò chuyện hết lời với nhau.
540 Duyên đâu chưa kịp một lời trao tơ, Trao tơ: Chỉ việc kết hôn. Theo sách Khai nguyên Thiên bảo di sự: Trương Gia Trinh, tể tướng nhà Đường, có năm con gái, muốn gả một người cho Quách Nguyên Chấn, đô đốc Lương Châu, người đẹp mà có tài nghệ, bèn bảo năm con đứng sau một bức màn, mỗi người cầm một sợi dây tơ dài, dòng ra ngoài, và cho Nguyên Chấn tuỳ ý kéo lấy một sợi, trúng sợi nào thì lấy người cầm sợi ấy. Nguyên Chấn được kéo sợi tơ đỏ, lấy người con thứ ba, rất đẹp.
541 Trăng thề còn đó trơ trơ,
542 Dám xa xôi mặt mà thưa thớt lòng.
543 Ngoài nghìn dặm chốc ba đông, Ba đông: Ba năm để tang.
544 Mối sầu khi gỡ cho xong còn chầy! Chầy: Còn chậm, còn lâu ngày.
545 Gìn vàng giữ ngọc cho hay, Gìn vàng giữ ngọc: Giữ thân thể cho được khoẻ mạnh, và cũng ngụ ý giữ gìn mối tình cho được thuỷ chung, trong sạch.
546 Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời.
547 Tai nghe ruột rối bời bời,
548 Ngập ngừng nàng mới giãi lời trước sau:
549 Ông tơ ghét bỏ chi nhau,
550 Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi!
551 Cùng nhau trót đã nặng lời,
552 Dẫu thay mái tóc dám dời lòng tơ!
553 Quản bao tháng đợi năm chờ,
554 Nghĩ người ăn gió nằm mưa xót thầm.
555 Đã nguyền hai chữ đồng tâm,
556 Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai. Ôm cầm thuyền ai: Ôm đàn sang thuyền của người khác, tức là đi lấy chồng khác.
557 Còn non còn nước còn dài,
558 Còn về còn nhớ đến người hôm nay!
559 Dùng dằng chưa nỡ rời tay,
560 Vầng đông trông đã đứng ngay nóc nhà.
561 Ngại ngùng một bước một xa,
562 Một lời trân trọng châu sa mấy hàng.
563 Buộc yên quảy gánh vội vàng,
564 Mối sầu xẻ nửa bước đường chia hai.
565 Buồn trông phong cảnh quê người,
566 Đầu cành quyên nhặt cuối trời nhạn thưa. Quyên: Chim đỗ quyên, tức chim quốc. Đây tả cảnh cuối hè, sang thu. Tiếng quyên kêu còn ra rả (nhặt) đầu cành và bóng nhạn đã thấy bay loáng thoáng (thưa) ở chân trời.
567 Não người cữ gió tuần mưa, Cữ, tuần: Người xưa thường tính bảy ngày là một cữ, và mười ngày là một tuần.
568 Một ngày nặng gánh tương tư một ngày. Tương tư: Nguyên nghĩa là ở xa cách mà cùng nhớ nhau, sau người ta mượn để nói sự nhớ nhau của đôi trai gái yêu nhau.
569 Nàng còn đứng tựa hiên tây,
570 Chín hồi vấn vít như vầy mối tơ. Chín hồi: Do chữ cửu hồi, ruột chín lần bị đau quặn lại.
571 Trông chừng khói ngất song thưa,
572 Hoa trôi trác thắm, liễu xơ xác vàng.
573 Tần ngần dạo gót lầu trang,
574 Một đoàn mừng thọ ngoại hương mới về, Ngoại hương: Làng ngoại , quê ngoại. Giãi dề: Giải bày, chuyện trò.
575 Hàn huyên chưa kịp giãi dề,
576 Sai nha bỗng thấy bốn bề xôn xao. Sai nha: Nha lại do quan trên sai phái đi.
577 Người nách thước, kẻ tay đao; Thước: Tay thước, một thứ võ khí cổ, bằng gỗ, dài độ một thước tây, cạnh vuông bốn góc, dùng để đánh người. Nách thước: Nách cắp tay thước. Đao: Dao to, mã tấu, thứ võ khí bằng sắt, lưỡi to.
578 Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi.
579 Già giang một lão một trai, Già: Cái gông. Giang: Khiêng đi, giải đi. ở đây nói cha con viên ngoại và Vương quan bị đóng gông lại.
580 Một dây vô lại buộc hai thâm tình.
581 Đầy nhà vang tiếng ruồi xanh,
582 Rụng rời khung cửi, tan tành gói may.
583 Đồ tế nhuyễn, của riêng tây, Tế nhuyễn: Nhỏ bé, mềm mại, chỉ chung những đồ vàng ngọc quí gái và trang sức, quần áo dễ mang đi.
584 Sạch sành sanh vét cho đầy túi tham.
585 Điều đâu bay buộc ai làm? Bay buộc: ý nói cái tai vạ tự đâu bay đến, buộc vào.
586 Này ai dan dậm, giật giàm bỗng dưng? Dậm: Một dụng cụ đánh cá.
587 Hỏi ra sau mới biết rằng:
588 Phải tên xưng xuất là thằng bán tơ. Xưng xuất: Xưng ra, khai ra.
589 Một nhà hoảng hốt ngẩn ngơ,
590 Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa mây. Loà mây: Làm mờ cả bầu trời. ý nói: một vụ hết sức oan uổng.
591 Hạ từ van lạy suốt ngày, Hạ từ: Hạ lời, nói lời thanh minh để kêu cầu van xin. Lân tuất: Thương xót, thương tình. ý cả câu: tụi sai nha cứ phủ tay đánh đập, mặc những lời kêu van của nhà Kiều, chúng chỉ làm điếc làm ngơ.
592 Điếc tai lân tuất, phũ tay tồi tàn.
593 Rường cao rút ngược dây oan, Rường cao: Thanh rường nhà bắc ở trên cao. Dây oan: Dây trói oan uổng. Tụi sai nha trói và treo ngược hai cha con họ Vương lên rường nhà.
594 Dẫu là đá cũng nát gan, lọ người.
595 Mặt trông đau đớn rụng rời,
596 Oan này còn một kêu trời, nhưng xa.
597 Một ngày lạ thói sai nha,
598 Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền.
599 Sao cho cốt nhục vẹn tuyền, Cốt nhục: Ruột thịt, chỉ Vương ông và Vương Quan.
600 Trong khi ngộ biến tòng quyền biết sao? Ngộ biến tòng quyền: Gặp cảnh biến phải theo đạo "quyền" (không thể giữ nguyên đạo "kinh" như lúc bình thường được). ý nói: Phải tuỳ theo hoàn cảnh mà xử sự cho thích hợp.
601 Duyên hội ngộ, đức cù lao, Hội ngộ: Gặp gỡ gắn bó nhau. Chỉ mối tình duyên giữa Kiều với Kim Trọng. Cù lao: Công ơn sinh dưỡng khó nhọc của cha mẹ.
602 Bên tình bên hiếu, bên nào nặng hơn?
603 Để lời thệ hải minh sơn, Thệ hải minh sơn: Chỉ non thề bể.
604 Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Sinh thành: Công ơn cha mẹ sinh ra và nuôi dưỡng nên người.
605 Quyết tình nàng mới hạ tình: Hạ tình: Tỏ bầy ý nghĩ.
606 Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha! Rẽ cho: Lời gạt đi ý kiến những người khác để nói lên ý kiến của mình một cách kiên quyết.
607 Họ Chung có kẻ lại già, Lại già: Người gia lại già.
608 Cũng trong nha dịch lại là từ tâm. Nha dịch: Người làm việc ở nơi gia môn, tức nơi công sở của các phủ huyện.
609 Thấy nàng hiếu trọng tình thâm,
610 Vì nàng nghĩ cũng thương thầm xót vay.
611 Tính bài lót đó luồn đây,
612 Có ba trăm lạng việc này mới xuôi.
613 Hãy về tạm phó giam ngoài,
614 Dặn nàng qui liệu trong đôi ba ngày. Qui liệu: Thu xếp, lo liệu.
615 Thương tình con trẻ thơ ngây,
616 Gặp cơn vạ gió tai bay bất kỳ!
617 Đau lòng tử biệt sinh ly, Tử biệt sinh ly: Chết vĩnh biệt nhau gọi là "tử biệt", sống mà xa lìa nhau gọi là "sinh ly". Đó là hai cảnh thương tâm lớn của đời người. Tuy là hai cảnh, nhưng người ta thường dùng làm một thành ngữ, để nói chung cho người gặp cảnh "tử biệt" cũng như người gặp cảnh "sinh ly".
618 Thân còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên!
619 Hạt mưa sá nghĩ phận hèn, Hạt mưa: Chỉ thân phận người con gái. Ca dao: Thân em như hạt mưa sa, Hạt vào đài các, hạt ra ruộng lầy.
620 Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân. Tấc cỏ, ba xuân: Do chữ tnốn thảo, tâm xuân. Thơ tả tình đi chơi xa nhớ mẹ của Mạnh Giao đời Đường có câu: Dục tương thốn thảo tâm, báo đáp tam xuân huy (Ai bảo cái lòng của ngọn cỏ một tấc (ngọn cỏ ngắn) báo đáp được ánh sáng ấm áp của ba tháng xuân). Tấc cỏ: Ví với người con. Ba xuân Ví với công ơn cha mẹ.
621 Sự lòng ngỏ với băng nhân, Băng nhân: Người làm mối.
622 Tin sương đồn đại xa gần xôn xao. Tin sương: Do chữ sương tín. Tin sương là ngụ ý chỉ tin tức truyền đi.
623 Gần miền có một mụ nào,
624 Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh. Viễn khách: Khách phương xa.
625 Hỏi tên rằng: Mã Giám sinh. Giám sinh: Sinh viên học tại Quốc tử giám, một thứ trường đại học của triều đình phong kiến, lập ở kinh đô để đào tạo người ra làm quan.
626 Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần. Lâm thanh: Một huyện thuộc tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc).
627 Quá niên trạc ngoại tứ tuần, Tử tuần: Bốn mươi tuổi (mỗi một tuần là mười tuổi).
628 Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
629 Trước thầy sau tớ lao xao
630 Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang. Nỗi mình: Nỗi riêng của mình, chỉ cuộc tình duyên dở dang với Kim Trọng. Nỗi nhà: Nỗi tai vạ của toàn gia đình họ Vương.
631 Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,
632 Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra.
633 Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
634 Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
635 Ngại ngùng giợn gió e sương, Rợn gió: Sợ gió.
636 Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.
637 Mối càng vén tóc bắt tay,
638 Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Điệu: Cách điệu, cốt cách.
639 Đắn đo cân sắc cân tài,
640 Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
641 Mặn nồng một vẻ một ưa,
642 Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu.
643 Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều,
644 Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường? Sinh nghi: Đồ dẫn cưới, tiền dẫn cưới.
645 Mối rằng: đáng giá nghìn vàng, Nghìn vàng: Đời hán, một nghìn vàng tức là một cân vàng, sau dùng để chỉ nghìn lạng vàng.
646 Gấp nhà nhờ lượng người thương dám nài. Rớp nhà: Nhà gặp lúc hoạn nạn.
647 Cò kè bớt một thêm hai,
648 Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
649 Một lời thuyền đã êm dằm Êm dằm: ý nói sự việc đã lo lót xong xuôi, êm thấm, giống như chiếc thuyền đã đứng êm dằm, khôn còn tròng trành nữa.
650 Hãy đưa danh thiếp trước cầm làm ghi. Canh thiếp: Lá thiếp biên tên, tuổi (nhân trong thiếp có biên tuổi, tức niên canh, nên gọi là canh thiếp). Theo hôn lễ xưa, khi bắt đầu dạm hỏi, nhà trai, nhà gái trao đổi canh thiếp của trai gái để đính ước với nhau.
651 Định ngày nạp thái vu qui, Nạp thái: Chỉ lễ dẫn đồ cưới. Vu qui: Về nhà chồng, chỉ lệ đón dâu.
652 Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong!
653 Một lời cậy với Chung công,
654 Khất từ tạm lĩnh Vương ông về nhà. Khất tử: Đơn xin (Nhà Kiều làm đơn xin tạm tha cho Vương ông).
655 Thương tình con trẻ cha già,
656 Nhìn nàng ông những máu sa ruột dàu:
657 Nuôi con những ước về sau,
658 Trao tơ phải lứa, gieo cầu đáng nơi. Gieo cầu: Hán Vũ đế kén phò mã, cho công chúa ngồi lên lầu, ném quả cầu xuống, ai cướp được thì làm phò mã.
659 Trời làm chi cực bấy trời,
660 Này ai vu thác cho người hợp tan! Vu thác: Vu là đổ tội cho, thác là đặt điều ra.
661 Búa rìu bao quản thân tàn,
662 Nỡ đầy đọa trẻ, càng oan khốc già.
663 Một lần sau trước cũng là,
664 Thôi thì mặt khuất chẳng thà lòng đau!
665 Theo lời càng chảy dòng châu,
666 Liều mình ông rắp gieo đầu tường vôi.
667 Vội vàng kẻ giữ người coi,
668 Nhỏ to nàng lại tìm lời khuyên can:
669 Vẻ chi một mảnh hồng nhan, Một mảnh hồng nhan: Như nói một mụn con gái.
670 Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
671 Dâng thư đã thẹn nàng Oanh, Nàng Oanh: Nàng Đề Oanh. Theo Liệt nữ truyện: Để Oanh người đời Hán, khi cha nàng là Thuấn Vu ý, phạm tội, bị hạ ngục ở Tràng An, chờ ngày hành hình, Đề Oanh dâng thư lên vua Văn đế, xin nộp mình làm giá hầu cho các nhà quan để chuộc tội cho cha, Văn đế cảm động, xuống chiếu tha cho cha nàng.
672 Lại thua ả Lý bán mình hay sao? Ả Lý: Nàng Lý Ký. Theo sách Đường dại tùng thư: Lý Ký, đời đường nhà nghèo, tự nguyện bán mình cho người làng đem cúng thần rắn, để lấy tiền nuôi cha mẹ. Về sau nàng chém chết thần rắn, rồi lấy vua Việt vương.
673 Cỗi xuân tuổi hạc càng cao, Cỗi xuân: Gốc cây xuân, chỉ người cha. Sách xưa nói: Tuổi hạc: Tuổi con chim hạc, như nói tuổi thọ. Sách xưa nói, chim hạc sống lâu một nghìn năm.
674 Một cây gánh vác biết bao nhiêu cành.
675 Lòng tơ dù chẳng dứt tình, Lòng tơ: Tấm lòng thương con vương vấn không dứt.
676 Gió mưa âu hẳn tan tành nưóc non. Gió mưa: Chỉ những tai biến xảy đến. Nước non: Chỉ cơ nghiệp nhà (nước non cũng như giang sơn).
677 Thà rằng liều một thân con,
678 Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây. Hoa dù rã cánh: Tức cây còn xanh lá, nói Vương ông được an toàn.
679 Phận sao đành vậy cũng vầy, Cũng vầy: cũng vậy, cũng thế thôi.
680 Cầm như chẳng đậu những ngày còn xanh. Đậu: Một cái hoa kết được thành quả, hay một cái quả giữ được đến lúc chín, không bị nửa chừng rụng đi, thì người ta gọi là cái hoa đậu, cái quả đậu. Cả câu: ý nói cũng xem như là đã chết ngay từ lúc còn nhỏ tuổi.
681 Cũng đừng tính quẩn lo quanh,
682 Tan nhà là một thiệt mình là hai.
683 Phải lời ông cũng êm tai,
684 Nhìn nhau giọt vắn giọt dài ngổn ngang.
685 Mái ngoài họ Mã vừa sang,
686 Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao.
687 Trăng già độc địa làm sao?
688 Cầm dây chẳng lựa buộc vào tự nhiên.
689 Trong tay đã sẵn đồng tiền,
690 Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì!
691 Họ Chung ra sức giúp vì, Giúp vì: Giúp đỡ.
692 Lễ tâm đã đặt, tụng kỳ cũng xong. Lễ tâm: Lễ vật của dân sự "thành tâm" đem đút lót cho bọn quan lại. Tụng kỳ: Kỳ xử kiện, tức phiên xử án.
693 Việc nhà đã tạm thong dong,
694 Tinh kỳ giục giã đã mong độ về. Tinh kỳ: Người ta thường dùng chữ tinh kỳ để chỉ cái ngày thành hôn, vì theo hôn lễ xưa, người ta đón dâu vào buổi tối.
695 Một mình nàng ngọn đèn khuya,
696 Áo dầm giọt lệ, tóc xe mối sầu.
697 Phận dầu, dầu vậy cũng dầu, Dầu: Cũng như nghĩa đành (dầu lòng, đành lòng).
698 Xót lòng đeo đẳng bấy lâu một lời! Một lời: Một lời thề nguyền. ý Kiều nói: Số phận ra sao cũng đành, nhưng chỉ đau lòng là trót đeo đẳng lời thề với Kim Trọng.
699 Công trình kể biết mấy mươi.
700 Vì ta khăng khít, cho người dở dang.
701 Thề hoa chưa ráo chén vàng,
702 Lỗi thề thôi đã phụ phàng với hoa.
703 Trời Liêu non nước bao xa. Trời liêu: Liêu dương.
704 Nghĩ đâu rẽ cửa chia nhà tự tôi.
705 Biết bao duyên nợ thề bồi.
706 Kiếp này thôi thế thì thôi còn gì.
707 Tái sinh chưa dứt hương thề. Tái sinh: Một kiếp sống nữa, kiếp sau cũng như nói lai sinh. Hương thề: Mảnh hương thề nguyền. Xem chú thích 517
708 Làm thân trâu ngựa đền nghì trúc mai. Trâu ngựa: Theo thuyết luân hồi nhà Phật: Người nào kiếp này mắc nợ ai mà chưa trả được, thì kiếp sau phải hoá làm thân trâu ngựa nhà người ta để đền trả cho xong. Nghì: Tức là chữ "nghĩa" được đọc chệch ra. Trúc mai: Tình nghĩa bền chặt thân thiết như vậy cây trúc, cây mai thường được trồng gần nhau.
709 Nợ tình chưa trả cho ai,
710 Khối tình mang xuống tuyền đài chưa tan. Khối tình: Tình sử: Xưa có một cô gái yêu một người lái buôn. Người lái buôn đi mãi chưa về, cô ta ốm tương tư mà chết. Khi hoả táng, quả tim kết thành một khối rắn, đốt không cháy, đập không vỡ. Sau người lái buôn trở về, thương khóc, nước mắt nhỏ vào khối ấy liền tan ra thành huyết. Tuyền đài: Nơi ở dưới suối vàng, tức nơi ở của người chết.
711 Nỗi riêng riêng những bàng hoàng, Bàn hoàn: ở đây có nghĩa là nghĩ quanh, nghĩ quẩn mãi không dứt.
712 Dầu chong trắng đĩa lệ tràn thấm khăn.
713 Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân, Giấc xuân: Giấc ngủ ngon lành.
714 Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
715 Cơ trời dâu bể đa đoan, Cơ trời: Tức thiên cơ, máy trời. Dâu bể: Cũng như "bể dâu". Đa đoan: Nhiều mối nhiều việc.
716 Một nhà để chị riêng oan một mình,
717 Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh? Nhẫn: Tiếng cổ, ngồi nhẫn là ngồi mãi suốt đêm.
718 Nỗi riêng còn mắc mối tình chi đây?
719 Rằng: Lòng đương thổn thức đầy,
720 Tơ duyên còn vướng mối này chưa xong.
721 Hở môi ra cũng thẹn thùng,
722 Để lòng thì phụ tấm lòng với ai.
723 Cậy em, em có chịu lời,
724 Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
725 Giữa đường đứt gánh tương tư,
726 Loan giao chắp mối tơ thừa mặc em. Kéo loan: do chữ loan giao, tức thứ keo chế bằng máu chim loan. Tương truyền người xưa thường dùng để nối dây đàn và dây cung. Mối tơ thừa: Ví dây tơ tình với dây đàn, dây tơ tình bị đứt.
727 Kể từ khi gặp chàng Kim,
728 Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.
729 Sự đâu sóng gió bất kỳ,
730 Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai!
731 Ngày xuân em hãy còn dài,
732 Xót tình máu mủ, thay lời nước non.
733 Chị dù thịt nát xương mòn,
734 Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chín suối: Do chữ cửu tuyền, chỉ nơi suối vàng.
735 Chiếc thoa với bức tờ mây, Tờ mây: Tờ giấy vẽ mây, tức tờ giấy ghi lời thề nguyền của Kim, Kiều.
736 Duyên này thì giữ vật này của chung.
737 Dù em nên vợ nên chồng,
738 Xót người mệnh bạc, ắt lòng chẳng quên.
739 Mất người còn chút của tin,
740 Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa. Mảnh hương nguyền: Những manhr gỗ thơm đã đốt dở trong cuộc thề nguyền của Kim, Kiều. Thời xưa, khi thề nguyền với nhau, người ta thường đốt hương.
741 Mai sau dầu có bao giờ.
742 Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
743 Trông ra ngọn cỏ lá cây,
744 Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
745 Hồn còn mang nặng lời thề,
746 Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai; Bồ liễu: Một loại cây ưa mọc gần nước. Cây bồ liễu rụng lá sớm hơn hết các loài cây, vì cái thể chất yếu đuối đó nên trong văn cổ thường dùng để ví với người phụ nữ.
747 Dạ đài cách mặt khuất lời, Dạ dài: Đài đêm tối, nghĩa bóng là cõi chết.
748 Rẩy xin chén nước cho người thác oan.
749 Bây giờ trâm gẫy bình tan, Trâm gẫy bình tan: Thơ Bạch Cư Dị, đời Đường: Bình truỵ trâm chiết thị hà như, tự thiếp kim triêu dữ quân biệt. (Cái cảnh bình rơi trâm gãy là thế nào? nó giống như cảnh biệt ly của thiếp với chàng buổi sáng nay). Đây dùng chỉ cuộc tình duyên tan vỡ.
750 Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
751 Trăm nghìn gửi lại tình quân, Tình quân: Người tình, cũng như tình lang.
752 Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
753 Phận sao phận bạc như vôi, Phận bạc: Chính nghĩa là phận mỏng, tức bạc mệnh.
754 Đã đành nước chẩy hoa trôi lỡ làng. Nước chảy hoa trôi: Hoa rụng xuống, nước trôi đi, nguyên chỉ cảnh xuân tàn, sau thường mượn để nói sự tàn tạ của đời người.
755 Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
756 Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!
757 Cạn lời hồn ngất máu say,
758 Một hơi lặng ngắt đôi tay giá đồng.
759 Xuân Huyên chợt tỉnh giất nồng, Xuân huyên: Xuân đường, huyên đường, tức cha mẹ.
760 Một nhà tấp nập, kẻ trong người ngoài.
761 Kẻ thang người thuốc bời bời,
762 Mới dằn cơn vựng, chưa phai giọt hồng. Vựng: Cơn ngất, bất tỉnh nhân sự. Giọt hồng: Giọt nước mắt có máu, giọt lệ thảm.
763 Hỏi: Sao ra sự lạ lùng?
764 Kiều càng nức nở mở không ra lời.
765 Nỗi nàng Vân mới rỉ tai,
766 Chiếc thoa này với tờ bồi ở đây.
767 Này cha làm lỗi duyên mày,
768 Thôi thì nỗi ấy sau này đã em.
769 Vì ai rụng cải rơi kim, Nói tình duyên nửa chừng bị chia lìa, tan vỡ.
770 Để con bèo nổi mây chìm vì ai.
771 Lời con dặn lại một hai,
772 Dẫu mòn bia đá, dám sai tấc vàng. Mòn bia đá: Chỉ một khoảng thời gian rất lâu. Tấc vàng: Tấc lòng bền vững như vàng.
773 Lậy thôi, nàng lại thưa chiềng, Chiềng: Trình, tiếng cổ.
774 Nhờ cha trả được nghĩa chàng cho xuôi.
775 Sá chi thân phận tôi đòi, Tôi đòi: Kiều bán mình làm vợ lẽ nàng tự xem như kẻ ăn người ở. Mấy hồi: Mấy hồi trống tan canh.
776 Dẫu rằng xương trắng quê người quản đâu.
777 Xiết bao kể nỗi thảm sầu!
778 Khắc canh đã giục nam lâu mấy hồi.
779 Kiệu hoa đâu đã đến ngoài,
780 Quản huyền đâu đã giục người sinh ly. Quân huyền: Chính nghĩa là ống trúc và dây đàn, thường dùng chỉ đàn. Đây nói họ Mã đưa các đồ âm nhạc đến đón Kiều.
781 Đau lòng kẻ ở người đi,
782 Lệ rơi thấm đá tơ chia rũ tằm. Đại ý cả câu: Giọt lệ rơi xuống, có thể thấm qua cả đá, tơ ruột rút ra, có thể làm chết rũ cả con tằm.
783 Trời hôm mây kéo tối rầm,
784 Rầu rầu ngọn cỏ đầm đầm cành sương.
785 Rước nàng về đến trú phường, Trú phường: Chỗ phố trọ, nhà trọ.
786 Bốn bề xuân khóa một nàng ở trong. Xuân khoá: Chữ xuân ở đây không phải là mùa xuân. Chú ý: lúc Mã Giám sinh đón Kiều là mùa thu: Đêm thu một khắc một chầy.
787 Ngập ngừng thẹn lục e hồng, Lục hồng: Màu lá xanh, màu hoa đỏ thường dùng để chỉ sắc đẹp của phụ nữ.
788 Nghĩ lòng lại xót xa lòng đòi phen. Nghĩ lòng: Nghĩ riêng trong lòng. Đòi phen: Nhiều phen, nhiều lúc.
789 Phẩm tiên rơi đến tay hèn, Phẩm tiên: Của trên cõi tiên. Hèn hạ, tục tằn.
790 Hoài công nắng giữ mưa gìn với ai: Nắng giữ mưa gìn: ý nói giữ gìn trinh tiết một cách thận trọng.
791 Biết thân đến bước lạc loài,
792 Nhị đào thà bẻ cho người tình chung. Nhị đào: Hoa đào còn phong nhị ví với người con gái còn trinh.
793 Vì ai ngăn đón gió đông, Gió đông: Tiếp ý chữ nhị đào ở trên, ý nói: Không để cho người tình chung bẻ nhị đào, giống như ngăn đón gió đông không cho đến với nhị đào vậy.
794 Thiệt lòng khi ở đau lòng khi đi.
795 Trùng phùng dầu họa có khi, Trùng phùng: Gặp gỡ lần thứ hai, ý nói đến sau này lại gặp Kim Trọng.
796 Thân này thôi có còn gì mà mong.
797 Đã sinh ra số long đong,
798 Còn mang lấy kiếp má hồng được sao?
799 Trên yên sẵn có con dao, Yên: Cái án, một loại bàn cổ, chân cao, bề mặt hẹp và dài.
800 Giấu cầm nàng đã gói vào chéo khăn:
801 Phòng khi nước đã đến chân,
802 Dao này thì liệu với thân sau này.
803 Đêm thu một khắc một chầy,
804 Bâng khuâng như tỉnh như say một mình.
805 Chẳng ngờ gã Mã Giám Sinh,
806 Vẫn là một đứa phong tình đã quen. Phong tình: ăn chơi phóng đãng bất chính.
807 Quá chơi lại gặp hồi đen,
808 Quen mùi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa.
809 Lầu xanh có mụ Tú Bà, Lầu xanh: Do chữ thanh lâu: Cái lầu sơn mầu xanh. Chữ thanh lâu nguyên chỉ lầu ở của phái quyền quí hay vua chúa, hoặc chỉ lầu ở của mỹ nhân. Về sau thanh lâu mới có nghĩa là nhà hát, nhà điếm.
810 Làng chơi đã trở về già hết duyên. Làng chơi: thuộc loại gái điếm gái làng chơi.
811 Tình cờ chẳng hẹn mà nên,
812 Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường. Mạt cưa mướp đắng: Chuyện cổ tích: "Một người lấy mạt cưa làm cám, đợi lúc nhá nhem tối, đem ra chợ bán, lại gặp một người đem mướp đắng giả làm dưa chuột ra bán. Hai người bán lẫn cho nhau, thế là bợm lại mắc bợm". Đây nói Mã Giám sinh và Tú bà cùng là phường bịp.
813 Chung lưng mở một ngôi hàng,
814 Quanh năm buôn phấn bán hương đã lề. Buôn phấn bán hương: Mua những con gái ở các nơi về làm gái điếm. Phấn và hương là hai thứ nữ giới dùng để trang điểm, nên mượn để chỉ chung nữ giới. Đã lề: ý nói đã thành nề nếp, đã quen nghề.
815 Dạo tìm khắp chợ thì quê, Chợ: Kẻ chợ, tức nơi thành thị, đô hội. Khắp chợ thì quê: Lối nói cổ, có nghĩa là: khắp chợ cùng quê, khắp vùng kẻ chợ đến miền thôn quê.
816 Giả danh hầu hạ dạy nghề ăn chơi. Giả danh hầu hạ: Mượn tiếng là tìm nàng hầu vợ lẽ để về hầu hạ. Dạy nghề ăn chơi: Dạy nghề làm gái điếm kiếm tiền.
817 Rủi may âu cũng tại trời,
818 Đoạn trường lại chọn mặt người vô duyên.
819 Xót nàng chút phận thuyền quyên, Thuyền quyên: Nguyên nghĩa là óng ả xinh tươi để chỉ người phụ nữ đẹp.
820 Cành hoa đem bán vào thuyền lái buôn.
821 Mẹo lừa đã mắc vào khuôn, Mẹo lừa: mưu mẹo lừa dối. Khuôn: Như nói vành, đã mắc vào vành không ra được nữa.
822 Sính nghi rẻ giá nghênh hôn sẵn ngày. Nghinh hôn: Đón dâu.
823 Mừng thầm: Cờ đã đến tay! Cờ đến tay: Đây mượn câu tục ngữ: Cờ đến tay ai, người nấy phất, để nói ý nghĩ của Mã: Kiều đã vào tay mình rồi muốn làm gì thì làm.
824 Càng nhìn vẻ ngọc càng say khúc vàng. Vẻ ngọc: Vẻ mặt đẹp như ngọc. Khúc vàng: Khúc lòng.
825 Đã nên quốc sắc thiên hương,
826 Một cười này hẳn nghìn vàng chẳng ngoa. Câu này do chữ nhất tiểu thiên kim: Một nụ cười của người đẹp đáng giá nghìn vàng.
827 Về đây nước trước bẻ hoa, Bẻ hoa: Tức phá trinh tiết của Kiều.
828 Vương tôn quý khách ắt là đua nhau. Vương tôn: Chỉ con gái các nhà quí phái.
829 Hẳn ba trăm lạng kém đâu,
830 Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời,
831 Miếng ngon kề dến tận nơi,
832 Vốn nhà cũng tiếc của trời cũng tham.
833 Đào tiên đã bén tay phàm,
834 Thì vin cành quít cho cam sự đời! Câu này ý nói: Đào tiên đã tới tay,thì vin cành bẻ phắt đi cho thoả sự đời (tức là làm ngay cái việc "nước trước bẻ hoa" ở trên).
835 Dưới trần mấy mặt làng chơi, Dưới trần: Như nói trong cõi đời, ở đời. Mấy mặt: Mấy người.
836 Chơi hoa đã dễ mấy người biết hoa. Biết hoa: Biết giá trị của hoa. ý nói: Bọn làng chơi đã dễ mấy người phân biệt được gái tân với gái mất tân.
837 Nước vỏ lựu máu mào gà, Nước vỏ lựu, mái mào gà: Theo sách Bắc lý chi: Gái thanh lâu tiếp khách xong, lại lấy nước vở lựu máu mào gà sống để rửa, giả làm gái còn tân để đánh lừa khách chơi.
838 Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên. Chiêu tập: Dùng cách sửa chữa làm như còn nguyên vẹn.
839 Mập mờ đánh lận con đen, Con đen: Những người còn trẻ tuổi mà khờ dại, đây chỉ những khách chơi không sành sỏi.
840 Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi?
841 Mụ già hoặc có điều gì,
842 Liều công mất một buổi quỳ mà thôi.
843 Vả đây đường xá xa xôi,
844 Mà ta bất động nữa người sinh nghi.
845 Tiếc thay một đóa trà mi, Trà mi: Một thứ hoa nở về mùa xuân đầu hạ, hoa mầu vàng nhạt rất đẹp.
846 Con ong đã tỏ đường đi lối về.
847 Một cơn mưa gió nặng nề,
848 Thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương. Ngọc, hương: Ngọc đẹp, hương thơm, ví với người đẹp.
849 Đêm xuân một giấc mơ màng,
850 Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ. Đuốc hoa: Do chữ hoa chúc: đuốc hoa, nến hoa.
851 Giọt riêng tầm tã tuôn mưa,
852 Phần căm nỗi khách phần dơ nỗi mình:
853 Tuồng chi là giống hôi tanh,
854 Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.
855 Thôi còn chi nữa mà mong?
856 Đời người thôi thế là xong một đời.
857 Giận duyên tủi phận bời bời,
858 Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh. Quyên sinh: Bỏ đời sống, tức tự tử.
859 Nghĩ đi nghĩ lại một mình:
860 Một mình thì chớ hai tình thì sao? Hai tình: Chỉ cha mẹ. ý nói: Một mình thì tự tử chẳng sao, nhưng còn cha mẹ thì làm thế nào?
861 Sao dầu sinh sự thế nào,
862 Truy nguyên chẳng kẻo lụy vào song thân. Truy nguyên: Tìm đến căn nguyên, gốc rễ của sự việc.
863 Nỗi mình âu cũng giãn dần, Giãn: Nới ra. Nỗi lòng của Kiều lúc trước như bị bóp nghẹt, nay nghĩ đi nghĩ lại, thấy nới dần ra.
864 Kíp chầy thôi cũng một lần mà thôi. Một lần: Một lần chết. Kiều nghĩ: chóng hay chậm, cũng một lần chết, nếu bây giờ nàng chết đi tất liên luỵ đến cha mẹ.
865 Những là đo đắn ngược xuôi,
866 Tiếng gà nghe đã gáy sôi mái tường. Gáy sôi: Gáy ầm ỹ, dồn dập. Chữ "sôi" có hàm ý giục giã.
867 Lầu mai vừa rúc còi sương, Lầu mai: Chòi canh về sáng. Còi sương: Tiếng tù và thổi lúc sớm tinh sương.
868 Mã Sinh giục giã vội vàng ra đi.
869 Đoạn trường thay lúc phân kỳ! Đoạn trường: Đứt ruột có nghĩa đau đớn quá (như dứt từng khúc ruột). Phân kỳ: Chia đường, chia lìa mỗi người mỗi ngả như nói "chia tay".
870 Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh. Vó câu: Vó ngựa (Câu: ngựa non đang sức lớn). Những chữ "khấp khểnh", "ghập ghềnh" vừa tả con đường đi gồ ghề khó khăn, vừa ngụ ý thân thế Kiều đã long đong vất vả ngay từ lúc bước chân ra đi...
871 Bề ngoài mười dặm trường đình, Trường đình: Đời Tần, Hán, người ta chia đường ra từng cung, cứ năm dặm là một cung ngắn, có một cái quán, gọi là "đoản đinh" (quán ngắn) mười dặm là một cung dài, lại có một cái quán nữa gọi là "trường đình" (quán dài). Tục cổ, chủ thường tiễn khách ra khỏi mười dặm đường làm tiệc tiến hành ở trường đình rồi mới trở về.
872 Vương ông mở tiệc tiễn hành đưa theo.
873 Ngoài thì chủ khách dập dìu, Chủ khách: Chỉ Vương ông Mã Giám sinh.
874 Một nhà huyên với một Kiều ở trong.
875 Nhìn càng lã chã giọt hồng,
876 Rỉ tai nàng mới giãi lòng thấp cao:
877 Hổ sinh ra phận thơ đào, Thơ đào: Đây có nghĩa là con gái ít tuổi, ngây thơ.
878 Công cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong?
879 Lỡ làng nước đục bụi trong,
880 Trăm năm để một tấm lòng từ đây.
881 Xem gương trong bấy nhiêu ngày,
882 Thân con chẳng kẻo mắc tay bợm già!
883 Khi về bỏ vắng trong nhà,
884 Khi vào dùng dắng khi ra vội vàng. Dùng dắng: Dùng dằng, do dự, khi Mã vào trong phòng Kiều thì do dự mà khi ở phòng ra thì vội vàng.
885 Khi ăn khi nói lỡ làng,
886 Khi thầy khi tớ xem thường xem khinh. Thầy tớ: Chỉ Mã và bọn tôi tớ Mã.
887 Khác màu kẻ quý người thanh,
888 Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn.
889 Thôi con còn nói chi con?
890 Sống nhờ đất khách thác chôn quê người!
891 Vương bà nghe bấy nhiêu lời,
892 Tiếng oan đã muốn vạch trời kêu lên.
893 Vài tuần chưa cạn chén khuyên. Tuần: Tuần rượu, mỗi chén rượu đôi bên cùng uống cạn là một tuần. Chén khuyên: Chén khuyên mời, đây là chén rượu tiến.
894 Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruổi xe. Nghỉ: Nó, hắn, y, thổ âm Nghệ Tĩnh đây chỉ Mã.
895 Xót con lòng nặng trì trì,
896 Trước yên ông đã nằn nì thấp cao: Trước yên: Trước yên ngựa của Mã.
897 Chút thân yếu liễu tơ đào, Yếu liễu thơ đào: ý nói Kiều còn yếu ớt thơ dại, ví như cây liễu yếu cây đào non.
898 Rớp nhà đến nỗi giấn vào tôi ngươi.
899 Từ đây góc bể bên trời, Góc bể chân trời: Do chữ hải giác thiên nhai: Góc biển cả, chỗ cùng nận bầu trời ý nói xa xôi hết sức.
900 Nắng mưa thui thủi quê người một thân.
901 Nghìn tầm nhờ bóng tùng quân, Tầm: Một đơn vị đo lường cổ của Trung Quốc, dài tám thước. Nghìn tầm: 8000 thước, nghĩa bóng: cao lắm! Tùng quân: Tùng là cây thông, một thứ cây cao lớn, lthân thẳng và cứng cáp, mùa đông lá cây vẫn xanh tươi, trong văn cổ, thường dùng để tượng trưng cho người trượng phu. Quân là cây trúc, dóng thẳng đốt ngang, thân rỗng mà không cong queo, thường dùng để tượng trưng cho người quân tử.
902 Tuyết sương che chở cho thân cát đằng. Tuyết sương che chở: Tức che chở cho khỏi tuyết sương. Cát đằng: Dây sắn, một loại day phải leo bám vào những cây to, người ta thường nói "cát đằng" "cát luỹ" hay "sắn bìm" để chỉ người vợ thiếp.
903 Cạn lời khách mới thưa rằng:
904 Buộc chân thôi cũng xích thằng nhiệm trao. Nhiệm trao: ý nói số trời mầu nhiệm đã buộc sợi "xích thằng".
905 Mai sau dầu dến thế nào,
906 Kìa gương nhật nguyệt nọ dao quỉ thần! Gương nhật nguyệt: Gương mặt trời, mặt trăng. Chữ "gương" hàm ý soi tỏ tội lỗi. Dao quỷ thần: Gươm dao của quỷ thần, hàm ý trừng phạt, ý Mã nói: nếu sau này ăn ở không thuỷ chung, sẽ có trời soi tỏ tội lỗi và bị quỷ thần trừng phạt.
907 Đùng dùng gió giục mây vần, Gió giục mây vần: Tả xe Kiều đi mau lẹ, vội vã.
908 Một xe trong cõi hồng trần như bay.
909 Trông vời gạt lệ chia tay, Trông vời: Tức trông với theo một cái gì đó đã đi xa.
910 Góc trời thăm thẳm đêm ngày đăm đăm.
911 Nàng thì dặm khách xa xăm,
912 Bạc phau cầu giá đen rầm ngàn mây. Bạc phau: Trắng phau, trắng xoá. Cầu giá: Váng sương bám trên mặt cầu buổi sớm mai. Ngàn mây: Những đám mây ở những nơi rừng núi. Câu này tả cảnh cuối thu, bắt đầu sang đông.
913 Vi lô san sát hơi may, Hơi may: Hơi gió heo may.
914 Một trời thu để riêng ai một người.
915 Dặm khuya ngất tạnh mù khơi, Ngất tạnh: Bầu trời cao ngất mà tạnh ráo. Mù khơi: Mù mịt xa khơi.
916 Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Lời non sông: Kiều thấy trăng mà nhớ đến cái "vầng trăng" đêm nào đã chứng kiến cuộc thề nguyện của hai người.
917 Rừng thu từng biếc xen hồng, Từng biếc xen hồng: Rừng cây mùa thu có những lá úa màu đỏ xen giữa từng lá mùa xanh.
918 Nghe chim như nhắc tấm lòng thần hôn. Thần hôn: Sớm hôm, chỉ sự sớm hôm chăm sóc thăm hỏi cha mẹ.
919 Những là lạ nước lạ non,
920 Lâm Truy vừa một tháng tròn tới nơi. Lâm tri: Tên huyện, thuộc tỉnh Sơn Đông.
921 Xe châu dừng bánh cửa ngoài, Xe châu: Xe có rèm hạt châu, thứ xe phụ nữ ngồi.
922 Rèm trong đã thấy một người bước ra.
923 Thoắt trông nhờn nhợt màu da,
924 Ăn gì to lớn đẫy đà làm sao!
925 Trước xe lơi lả han chào,
926 Vâng lời nàng mới bước vào tận nơi.
927 Bên thì mấy ả mày ngài, Mày ngài: Tức mấy ả gái điếm.
928 Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi.
929 Giữa thì hương án hẳn hoi,
930 Trên treo một tượng trắng đôi lông mày. Tượng: Bức tranh vẽ. Tượng trắng đôi lông mày tức tranh thần "Bạch mi".
931 Lầu xanh quen lối xưa nay,
932 Nghề này thì lấy ông này tiên sư, Tiên sư: Tổ sư, ông tổ sáng lập ra một nghề. Chữ dùng hàm ý mỉa mai.
933 Hương hôm hoa sớm phụng thờ.
934 Cô nào xấu vía có thưa mối hàng,
935 Cởi xiêm lột áo sỗ sàng,
936 Trước thần sẽ nguyện mảnh hương lầm rầm.
937 Đổi hoa lót xuống chiếu nằm, Đổi hoa: Như nói thải hoa, tức như lấy hoa mới để thờ, thải hoa cũ lót xuống dưới chiếu để nằm.
938 Bướm hoa bay lại ầm ầm tứ vi! Tứ vi: Bốn phía xung quanh.
939 Kiều còn ngơ ngẩn biết gì,
940 Cứ lời lạy xuống mụ thì khấn ngay:
941 Cửa hàng buôn bán cho may,
942 Đêm đêm Hàn thực ngày ngày Nguyên tiêu. Hàn thực: Ăn lạnh, ăn đồ nguội. Giới Tử Thôi giúp Tấn Văn Công khôi phục lại ngôi vua, nhưng lúc ân thưởng triều thần. Văn Công lại quên mất Tử Thôi. Tử Thôi bất bình trốn vào núi ở ẩn. Đến lúc Văn Công nghĩ lại, muốn vời Tử Thôi, nhưng Tử Thôi quyết chí ở ẩn, Văn Công ra lệnh đốt rừng Tử Thôi quyết tâm chịu chết cháy ở trong núi. Văn Công hối hận vô cùng ra lệnh hàng năm đúng ngày Tử Thôi chết, cấm không được đốt lửa. Do đó mà có tục hàn thực, cứ trước...tiết thanh minh hai ngày (có sách chép một ngày) người ta cấm đốt lửa, ăn đồ nguội, và tổ chức nhiều cuộc vui: đá cầu, đánh đu, chọi gà, kết xe hoa đi dong chơi. Nguyên tiêu: Đêm tiết thượng nguyên, tức đêm ngày rằm tháng riêng đầu năm. Đây Tú bà khấn thần phù hộ cho cửa hàng lầu xanh của mụ, ngày lại đêm, lúc nào khách chơi cũng ra vào đông đúc, tấp nập như những ngày hội hàn thực nguyên tiêu.
943 Muôn nghìn người thấy cũng yêu,
944 Xôn xao oanh yến dập dìu trúc mai.
945 Tin nhạn vẩn lá thư bài, Tin nhạn: Tô Vũ, người đời Hán, đi sứ sang Hung nô không chịu khuất phục, bị chúa Hưng nô đầy lên Bắc Hải chăn dê, nhà Hán hỏi, thì bảo là chết rồi, sau sứ Hán phải nói thác là vua Hán săn được con chim nhạn ở vườn thượng lâm chân nó có buộc một bức thư lụa của Tồ Vũ gửi về, khi ấy Hưng nô mới chịu trả lại Tô Vũ cho nhà Hán. Do đó, người ta thường nói "tin nhạn" để chỉ tin thư. ở đây, tác giả dùng như nghĩa "tin tức" đơn thuần.
946 Đưa người cửa trước rước người cửa sau.
947 Lạ tai nghe chửa biết đâu,
948 Xem tình ra cũng những màu dở dang.
949 Lễ xong hương hỏa gia đường, Hương hoa gia đường: Bốn chữ này nguyên chỉ nhà hay bàn thờ cúng gia tiên, đây tác giả dùng chỉ bàn thờ thần Bạch mi.
950 Tú Bà vắt nóc lên giường ngồi ngay.
951 Dạy rằng: Con lạy mẹ đây,
952 Lạy rồi sang lạy cậu mày bên kia. Cậu mày: Tức cha mày, chỉ Mã Giám sinh, Tú Bà bắt Kiều lạy nhận mụ là mẹ nuôi. Mã Giám sinh là cha nuôi.
953 Nàng rằng: Phải bước lưu ly,
954 Phận hèn vâng đã cam bề tiểu tinh. Tiểu tinh: Sao nhỏ, chỉ vợ lẽ.
955 Điều đâu lấy yến làm oanh,
956 Ngây thơ chẳng biết là danh phận gì?
957 Đủ điều nạp thái vu qui,
958 Đã khi chung chạ lại khi đứng ngồi.
959 Giờ ra thay mặt đổi ngôi,
960 Dám xin gửi lại một lời cho minh.
961 Mụ nghe nàng nói hay tình,
962 Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên: Tam banh: Theo sách Đạo giáo "Trong người ta có ba thần thi: Thượng Thi, tên Bành Chất, ở bụng;Hạ Thi, tên Bành Kiệu, ở chân, thường làm hại người". Do đó, người ta cho rằng: những sự hung ác giận dữ của người là do thần "Tam thi" hay"Tam Bành" làm ra, và thường dùng chữ tam bành để chỉ cơn tức giận.
963 Này này sự đã quả nhiên,
964 Thôi đà cướp sống chồng min đi rồi. Min: Ta, tao (tiếng cổ).
965 Bảo rằng đi dạo lấy người,
966 Đem về rước khách kiếm lời mà ăn.
967 Tuồng vô nghĩa ở bất nhân,
968 Buồn mình trước đã tần mần thử chơi.
969 Màu hồ đã mất đi rồi,
970 Thôi thôi vốn liếng đi đời nhà ma!
971 Con kia đã bán cho ta,
972 Nhập gia phải cứ phép nhà tao đây.
973 Lão kia có giở bài bây,
974 Chẳng văng vào mặt mà mày lại nghe.
975 Cớ sao chịu tốt một bề,
976 Gái tơ mà đã ngứa nghề sớm sao?
977 Phải làm cho biết phép tao!
978 Chập bì tiên rắp sấn vào ra tay. Bì tiên: Cái roi bằng da.
979 Nàng rằng: Trời thẳm đất dày!
980 Thân này đã bỏ những ngày ra đi.
981 Thôi thì thôi có tiếc gì!
982 Sẵn dao tay áo tức thì giở ra.
983 Sợ gan nát ngọc liều hoa!
984 Mụ còn trông mặt nàng đà quá tay.
985 Thương ôi tài sắc bậc này,
986 Một dao oan nghiệt đứt dây phong trần. Phong trần: Cõi đời gió bụi. ý nói: Một nhát dao oan nghiệt cắt đứt quan hệ với cuộc đời phong trần tức là chết.
987 Nỗi oan vỡ lở xa gần,
988 Trong nhà người chật một lần như nêm.
989 Nàng thì bằn bặt giấc tiên,
990 Mụ thì cầm cập mặt nhìn hồn bay.
991 Vực nàng vào chốn hiên tây,
992 Cắt người coi sóc chạy thầy thuốc thang.
993 Nào hay chưa hết trần duyên, Trần duyên: Nhân duyên cõi trần, cõi đời.
994 Trong mê dường đã đứng bên một nàng.
995 Rỉ rằng: Nhân quả dở dang,
996 Đã toan trốn nợ đoạn trường được sao?
997 Số còn nặng nợ má đào,
998 Người dầu muốn quyết trời nào đã cho.
999 Hãy xin hết kiếp liễu bồ,
1000 Sông Tiền đường sẽ hẹn hò về sau. Tiền đường: Tên một con sông chảy qua gần Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
1001 Thuốc thang suốt một ngày thâu,
1002 Giấc mê nghe đã dàu dàu vừa tan.
1003 Tú bà chực sẵn bên màn,
1004 Lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần:
1005 Một người dễ có mấy thân!
1006 Hoa xuân đương nhụy, ngày xuân còn dài. Hoa xuân đương nhuỵ: Hoa xuân đương lên nhuỵ, tức mới nở. ý nói Kiều còn trẻ trung.
1007 Cũng là lỡ một lầm hai,
1008 Đá vàng sao nỡ ép nài mưa mây! Đá vàng: Đây chỉ lòng kiên trinh của phụ nữ.
1009 Lỡ chân trót đã vào đây,
1010 Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non. Khoá buồng xuân: Khoá kín vẻ xuân trong buồng, như nói cấm cung. Đợi ngày đào non: Đợi ngày lấy chồng.
1011 Người còn thì của hãy còn,
1012 Tìm nơi xứng đáng là con cái nhà.
1013 Làm chi tội báo oán gia, Tội báo: Như nói là ác báo. Oan gia: Kẻ oán thù, cừu thù.
1014 Thiệt mình mà hại đến ta hay gì?
1015 Kề tai mấy mỗi nằn nì,
1016 Nàng nghe dường cũng thị phi rạch ròi. Thị phi rạch ròi: Lẽ phải, lẽ trái phân minh. Đại ý: Kiều nghe lời Tú Bà nói cũng có lý.
1017 Vả suy thần mộng mấy lời, Thần mộng: Lời báo mộng của quỉ thần (tức Đạm Tiên).
1018 Túc nhân âu cũng có trời ở trong. Tức nhân: Nhân duyên có sẵn từ trước, như nói duyên số tiền định.
1019 Kiếp này nợ trả chưa xong,
1020 Làm chi thêm một nợ chồng kiếp sau!
1021 Lặng nghe, thấm thía gót đầu,
1022 Thưa rằng: Ai có muốn đâu thế này?
1023 Được như lời, thế là may,
1024 Hẳn rằng mai có như rày cho chăng!
1025 Sợ khi ong bướm đãi đằng, Đãi đằng: Tiếng cổ, nghĩa là giãi bày. Ca dao: Cá buồn cá lội tung tang, Em buồn em biết dãi dằng cùng ai. Ở đây đãi đằng có nghĩa là điều ra tiếng vào của những người khách chơi.
1026 Đến điều sống đục, sao bằng thác trong!
1027 Mụ rằng: Con hãy thong dong, Thong dong: ở đây có nghĩa là khoan tâm, thư tâm.
1028 Phải điều lòng lại dối lòng mà chơi!
1029 Mai sau ở chẳng như lời,
1030 Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
1031 Thấy lời quyết đoán hẳn hoi,
1032 Đành lòng, nàng cũng sẽ nguôi nguôi dần.
1033 Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân, Ngưng bích: Tên cái lầu mà Tú Bà dành cho Kiều ở. Ngưng Bích: Nghĩa là đọng (tụ) lại màu biếc.
1034 Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung.
1035 Bốn bề bát ngát xa trông,
1036 Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia. Bụi hồng: Đây chỉ những đám bụi bốc lên ở trên đường.
1037 Bẽ bàng mây sớm đèn khuya, Bẽ bàng: Chán ngán, buồn tủi.
1038 Nửa tình, nửa cảnh như chia tấm lòng.
1039 Tưởng người dưới nguyệt chén đồng, Chén đồng: Chén đồng tâm, tức chén rượu thề nguyền đồng tâm với nhau.
1040 Tin sương luống những rày trông mai chờ.
1041 Bên trời góc bể bơ vơ,
1042 Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Tấm son: Tấm lòng son, đây chỉ tấm lòng thuỷ chung.
1043 Xót người tựa cửa hôm mai,
1044 Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ? Quạt hồng, ấm lạnh: Quạt khi nồng, ấp khi lạnh, do chữ đông ôn hạ sảnh ở Kinh Lễ.
1045 Sân Lai cách mấy nắng mưa, Sân Lai: Sân Lão Lai. Theo sách Cao Sĩ truyện: "Lão Lai Tử, người nước Sở, đời Xuân Thu, tuổi đã ngoài bảy mươi, mà còn cha mẹ già, ông thường mặc áo ngũ sắc sặc sỡ, ra múa ở trước sân, rồi giả cách ngã, khóc, như trẻ con, để làm cho cha mẹ vui". Đây nói bóng sân nhà cho mẹ, tức nhà mình.
1046 Có khi gốc tử đã vừa người ôm? Gốc tử: Gốc cây tử (loài cây thị). Đây dùng chỉ cha mẹ, "gốc tử đã vừa người ôm" nói bóng cha mẹ đã già rồi.
1047 Buồn trông cửa bể chiều hôm,
1048 Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
1049 Buồn trông ngọn nước mới sa,
1050 Hoa trôi man mác, biết là về đâu?
1051 Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
1052 Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
1053 Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh Ghềnh: Vực sâu, vũng biển.
1054 Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồị
1055 Chung quanh những nước non người,
1056 Đau lòng lưu lạc, nên vài bốn câu.
1057 Ngậm ngùi rủ bước rèm châu, Rèm châu: do chữ Châu liêm, rèm kết bằng ngọc châu.
1058 Cách tường, nghe có tiếng đâu họa vần.
1059 Một chàng vừa trạc thanh xuân,
1060 Hình dong chải chuốt, áo khăn dịu dàng.
1061 Nghĩ rằng cũng mạch thư hương, Mạch: Dòng dõi.
1062 Hỏi ra mới biết rằng chàng Sở Khanh.
1063 Bóng nga thấp thoáng dưới mành, Bóng nga: Bóng người đẹp, chỉ Kiều.
1064 Trông nàng, chàng cũng ra tình đeo đai. Đeo đai: Vương vấn ra vẻ quyến luyến.
1065 Than ôi! Sắc nước hương trời,
1066 Tiếc cho đâu bỗng lạc loài đến đây?
1067 Giá đành trong nguyệt trên mây, Trong nguyện trên mây: ý nói có một phẩm giá khác đời, như Hằng nga trong cung nguyệt hay tiên nữ trên cung mây.
1068 Hoa sao, hoa khéo đọa đày bấy hoa?
1069 Tức gan riêng giận trời già,
1070 Lòng này ai tỏ cho ta, hỡi lòng? Chữ lòng ở đầu câu là Sở Khanh tự nói lòng mình còn chữ lòng ở cuối câu là Sở Khanh hỏi lòng Kiều, hai chữ chỉ riêng hai người.
1071 Thuyền quyên ví biết anh hùng,
1072 Ra tay tháo cũi, sổ lồng như chơi!
1073 Song thu đã khép cánh ngoài, Song thu: Cửa sổ mùa thu (nói thời tiết khi ấy).
1074 Tai còn đồng vọng mấy lời sắt đanh.
1075 Nghĩ người thôi lại nghĩ mình,
1076 Cám lòng chua xót, nhạt tình chơ vơ.
1077 Những là lần lữa nắng mưa,
1078 Kiếp phong trần biết bao giờ mới thôi?
1079 Đánh liều nhắn một hai lời,
1080 Nhờ tay tế độ vớt người trầm luân. Tế độ: Cứu vớt. Trầm luân: Chìm đắm, đắm đuổi. ý Kiều muốn nhờ Sở Khanh cứu mình thoát nạn thanh lâu như Phật cứu vớt chúng sinh khỏi bể trầm luân.
1081 Mảnh tiên kể hết xa gần, Mảnh tiên: Mảnh giấy hoa tiên, tức tờ thư.
1082 Nỗi nhà báo đáp, nỗi thân lạc loài. Nỗi nhà báo đáp: Nông nỗi phải báo đáp ơn nhà, bán mình chuộc cha.
1083 Tan sương vừa rạng ngày mai,
1084 Tiện hồng nàng mới nhắn lời gửi sang. Tiện hồng: Thuận tiện cánh chim hồng, tức là nhân có người mà gửi thư. Chữ hồng đây dùng như chữ nhạn, chỉ tin tức thư từ.
1085 Trời tây lãng đãng bóng vàng,
1086 Phúc thư đã thấy tin chàng đến nơi. Tiên mai: Do chữ mai tiên, tờ tiên có vẽ cành hoa mai.
1087 Mở xem một bức tiên mai,
1088 Rành rành tích việt có hai chữ đề.
1089 Lấy trong ý tứ mà suy:
1090 Ngày hai mươi mốt, tuất thì phải chăng? Tuất thì: Giờ tuất, tức tám, chín giờ tối hiện nay. Hai chữ tích việt của Sở Khanh, đem tản ra theo lối tản tự, thì thành những chữ trấp nhất naật tuất lẩu, nghĩa là ngày hai mươi mốt, giờ tuất, chạy trốn. Đó là Sở Khanh bí mật hẹn ngày giờ đi trốn mà Kiều đã lấy ý tứ suy đoán ra.
1091 Chim hôm thoi thót về rừng, Thoi thót: Chim từng con lần lượt bay về, con này rồi đến con khác.
1092 Đóa trà mi đã ngậm trăng nửa vành. Ngậm trăng nửa vành: ý nói buổi tối, vầng trăng chiếu vào hoa trà mi ngậm lấy nửa vành trăng.
1093 Tường đông lay động bóng cành,
1094 Rẽ song, đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
1095 Sượng sùng đánh dạn ra chào,
1096 Lạy thôi, nàng mới rỉ tai ân cần. Ân cần: ở đây có nghĩa là khẩn khoản.
1097 Rằng: Tôi bèo bọt chút thân, Bèo bọt: Như bèo hay bọt trôi nổi trên mặt nước, ngụ lý lưu lạc lẻ loi.
1098 Lạc đàn mang lấy nợ nần yến anh. Yến anh: Đây chỉ gái nhà chứa. ý Kiều nói: nàng như con chim lạc đàn, lại mang lấy cái nợ làm gái nhà chứa.
1099 Dám nhờ cốt nhục tử sinh, Cốt nhục tử sinh: Do chữ sinh tử nhục cốt. Tả chuyện: Sở vị sinh tử cốt đã (thế gọi là làm sống lại người chết, làm mọc thịt nắn xương khô - làm cho người đã chết sống lại, xương đã khô mọc thịt ra). Do đó, người ta thường chỉ sự làm ơn rất sâu sắc, to lớn.
1100 Còn nhiều kết cỏ ngậm vành về sau! Kết cỏ ngậm vành: Tả chuyện: Nguỵ Thù nước Tấn, có tột người thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là Nguỵ Khoả phải đem cả người thiếp chôn theo. Nguỵ Thù chết, Nguỵ Khoả cho người thiếp về không đem chôn theo. Sau Nguỵ Khoả làm tướng đi đánh giặc nước Tần, gặp tướng Tần là Đỗ Hồi, khoẻ mạnh có tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị Nguỵ Khoả bắt được. Đêm về, Nguỵ Khoả mộng thấy một ông già đến nói rằng: "Tôi là cha người thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi kết cỏ quấn chân Đỗ Hồi cho nó ngã vấp để báo ơn". Tục Tề hài ký: Dương Biểu đến chơi núi Hoa Âm cứu sống được một con chim. Đêm ấy có một đồng tử mặc áo vàng đến tặng bốn chiếc vòng và nói rằng: "Ta là sứ giả của Tây Vương mẫu may được chàng cứu mạng, xin cảm tạ đại ân". Do đó, người ta thường nói "kết cỏ ngậm vành" để chỉ sự đền ơn trả nghĩa.
1101 Lặng nghe, lẩm nhẩm gật đầu:
1102 Ta đây phải mượn ai đâu mà rằng!
1103 Nàng đà biết đến ta chăng,
1104 Bể trầm luân, lấp cho bằng mới thôi!
1105 Nàng rằng: Muôn sự ơn người,
1106 Thế nào xin quyết một bài cho xong.
1107 Rằng: Ta có ngựa truy phong, Truy phong: Đuổi theo gió, nói con ngựa đi rất nhanh.
1108 Có tên dưới trướng, vốn dòng kiện nhi. Dưới trướng: Do chữ trướng hạ, nguyên chỉ quân sĩ thuộc quyền chỉ huy của một vị soái. Đây dùng để chỉ kẻ thủ hạ của Sở Khanh. Kiện nhi: Người trẻ tuổi mà có sức khỏe. Sở Khanh khoe nhà y có ngựa tốt và thủ hạ khỏe mạnh, là có ý bảo Kiều nếu chạy trốn thì sẽ sẵn phương tiện và người hộ vệ chắc chắn không phải lo ngại gì.
1109 Thừa cơ lẻn bước ra đi,
1110 Ba mươi sáu chước, chước gì là hơn. Ba mươi sáu chước: "Tam thập lục" là một danh từ chỉ chung tất cả các chước. Câu này Sở Khanh bảo Kiều chỉ có một kế hay nhất là chạy trốn.
1111 Dù khi gió kép, mưa đơn, Gió kép mưa đơn: ý nói dù có những trở ngại bất trắc...
1112 Có ta đây cũng chẳng cơn cớ gì!
1113 Nghe lời nàng đã sinh nghi,
1114 Song đà quá đỗi, quản gì được thân. Quá đỗi: Quá mức, quá đà, ý nói việc đã trót dở dang rồi.
1115 Cũng liều nhắm mắt đưa chân,
1116 Mà xem con tạo xoay vần đến đâu!
1117 Cùng nhau lẻn bước xuống lầu,
1118 Song song ngựa trước, ngựa sau một đoàn.
1119 Đêm thâu khắc lậu canh tàn, Lậu: Đồng hồ nhỏ giọt. Thời xưa thường dùng "đồng hồ nước" để tính thời khắc. Đó là một cái đồng hồ bằng đồng, dưới có đục lỗ nhỏ, trong chứa nước, giữa đựng một cái tên có khắc độ;nước trong hồ do lỗ nhỏ giọt ra, thì những độ số ở cái tên cũng dần dần lộ ra, xem đó, biết được thời khắc của ngày đêm. Danh từ đồng hồ ngày nay còn quen gọi là gốc ở đó.
1120 Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương.
1121 Lối mòn cỏ nhợt mù sương,
1122 Lòng quê đi một bước đường, một đau. Lòng quê: Lòng nhớ quê hương.
1123 Tiếng gà xao xác gáy mau,
1124 Tiếng người đâu đã mái sau dậy dàng. Dậy dàng: Xôn xao ồn ào nổi lên.
1125 Nàng càng thổn thức gan vàng, Gan vàng: Có nghĩa như "lòng vàng". Kiều đoán có người đuổi theo phía sau nên hồi hộp sợ hãi...
1126 Sở Khanh đã rẽ dây cương lối nào!
1127 Một mình khôn biết làm sao,
1128 Dặm rừng bước thấp, bước cao hãi hùng. Dặm rừng: Đường rừng, lối đi trong rừng.
1129 Hóa nhi thật có nỡ lòng,
1130 Làm chi dày tía, vò hồng, lắm nau! Lắm nau: Lắm nao, có nghĩa là đến như thế sao!
1131 Một đoàn đổ đến trước sau,
1132 Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời. Vuốt: Móng sắc của loài thú. ý nói không thoát lối nào được.
1133 Tú bà tốc thẳng đến nơi,
1134 Hầm hầm áp điệu một hơi lại nhà.
1135 Hung hăng chẳng nói chẳng tra,
1136 Đang tay vùi liễu, giập hoa tơi bời.
1137 Thịt da ai cũng là người,
1138 Lòng nào hồng rụng, thắm rời chẳng đau.
1139 Hết lời thú phục, khẩn cầu, Thú tội, chịu tội. Khẩn cầu: Khẩn khoản, cầu xin.
1140 Uốn lưng thịt đổ, cất đầu máu sa.
1141 Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
1142 Nước non lìa cửa, lìa nhà, đến đây. Nước non ý nói cách trở nước non, tức là nơi ở xa xôi.
1143 Bây giờ sống chết ở tay,
1144 Thân này đã đến thế này thì thôi!
1145 Nhưng tôi có sá chi tôi,
1146 Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
1147 Thân lươn bao quản lấm đầu,
1148 Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa!
1149 Được lời mụ mới tùy cơ,
1150 Bắt người bảo lĩnh làm tờ cung chiêu. Bảo lĩnh: Người đứng ra đảm bảo, chịu trách nhiệm thay. Cung chiêu: Cung khai, nhận tội Tú bà muốn bắt buộc Kiều giữ lời hứa, nên bắt làm tờ cung chiêu nhận tội, và bắt người đứng bảo lĩnh về lời cam kết của nàng.
1151 Bày vai có ả Mã Kiều, Bày vai: Cùng hàng cùng lứa.
1152 Xót nàng, ra mới đánh liều chịu đoan. Chịu đoan: Chịu nhận trách nhiệm về Kiều.
1153 Mụ càng kể nhặt, kể khoan,
1154 Gạn gùng đến mực, nồng nàn mới tha.
1155 Vực nàng vào nghỉ trong nhà,
1156 Mã Kiều lại ngỏ ý ra dặn lời:
1157 Thôi đà mắc lận thì thôi!
1158 Đi đâu chẳng biết con người Sở Khanh?
1159 Bạc tình, nổi tiếng lầu xanh,
1160 Một tay chôn biết mấy cành phù dung! Phù dung: Hoa phù dung, ví với người đẹp.
1161 Đà đao lập sẵn chước dùng, Đà đao: Khi đánh giặc, giả thua chạy để người ta đuổi theo, rồi thình lình quăng dao lại chém, gọi là "đà dao". "Đà đao" đây là một chước lửa.
1162 Lạ gì một cốt một đồng xưa nay! Mộ cốt một đồng: Nói Tú bà với Sở Khanh thông đồng hiệp mưu với nhau để đánh lừa Kiều.
1163 Có ba mươi lạng trao tay,
1164 Không dưng chi có chuyện này, trò kia! Không dưng: Nếu không thì tự nhiên làm chi có...
1165 Rồi ra trở mặt tức thì,
1166 Bớt lời, liệu chớ sân si, thiệt đời! Sân si: Phân bua, cãi cọ. Mã Kiều khuyên Kiều nên nén nỗi tức giận, chớ nên đôi có với Sở Khanh mà thiệt mình.
1167 Nàng rằng: Thề thốt nặng lời,
1168 Có đâu mà lại ra người hiểm sâu!
1169 Còn đương suy trước, nghĩ sau,
1170 Mặt mo đã thấy ở đâu dẫn vào.
1171 Sở Khanh lên tiếng rêu rao:
1172 Rằng nghe mới có con nào ở đây.
1173 Phao cho quyến gió rủ mây, Quyến gió rủ mây: Quyến rũ mây gió đi theo. ý nói quyến rũ Kiều.
1174 Hãy xem có biết mặt này là ai?
1175 Nàng rằng: Thôi thế thì thôi!
1176 Rằng không, thì cũng vâng lời là không!
1177 Sở Khanh quắt mắng đùng đùng,
1178 Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay, Thị hùng: Cậy sức mạnh mà ra oai đánh đập người.
1179 Nàng rằng: Trời nhé có hay!
1180 Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai? Anh yến: Chỉ chung những người con gái.
1181 Đem người giẩy xuống giếng khơi, Giếng khơi: Giếng sâu.
1182 Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay! Ăn lời: Nuốt lời, tức không giữ lời.
1183 Còn tiên tích việt ở tay,
1184 Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai? Mặt ấy, mặt này: Mấy tiếng này, Kiều xỉa xói vào mặt Sở Khanh mà nói, đối đáp lại tiếng "mặt mày" của Sở Khanh ở trên.
1185 Lời ngay, đông mặt trong ngoài,
1186 Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương! Vô lương: Cũng như bất lương, không lương thiện, không có lương tâm.
1187 Phụ tình án đã rõ ràng,
1188 Dơ tuồng, nghỉ mới kiếm đường tháo lui.
1189 Buồng riêng, riêng những sụt sùi:
1190 Nghĩ thân, mà lại ngậm ngùi cho thân.
1191 Tiếc thay trong giá trắng ngần, Trong giá trắng ngần: Do câu tục ngữ: Trong như giá, trắng như ngần, trong như băng trắng như bạc (ngần là do chữ ngân).
1192 Đến phong trần, cũng phong trần như ai!
1193 Tẻ vui cũng một kiếp người,
1194 Hồng nhan phải giống ở đời mãi ru!
1195 Kiếp xưa đã vụng đường tu,
1196 Kiếp này chẳng kẻo đền bù mới xuôi!
1197 Dù sao bình đã vỡ rồi,
1198 Lấy thân mà trả nợ đời cho xong!
1199 Vừa tuần nguyệt sáng, gương trong,
1200 Tú bà ghé lại thong dong dặn dò:
1201 Nghề chơi cũng lắm công phu,
1202 Làng chơi ta phải biết cho đủ điều.
1203 Nàng rằng: Mưa gió dập dìu,
1204 Liều thân, thì cũng phải liều thế thôi!
1205 Mụ rằng: Ai cũng như ai,
1206 Người ta ai mất tiền hoài đến đây?
1207 Ở trong còn lắm điều hay,
1208 Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng chung. Khép mở, riêng chung: Chỉ giọng nói tỉ tê, nửa khép nửa mở, mối tình nỉ non, như riêng như chung, tức những mánh khoé quyến rũ.
1209 Này con thuộc lấy nằm lòng,
1210 Vành ngoài bảy chữ, vành trong tám nghề. Vành ngoài bảy chữ: Bảy cách đối với khách ở bề ngoài để cho khách say mê. Vành trong tám nghề: Tám cách đối đãi trong khi ăn nằm với khách, đối với mỗi hạng người, dùng một lối riêng để làm vừa lòng họ.
1211 Chơi cho liễu chán, hoa chê,
1212 Cho lăn lóc đá, cho mê mẩn đời.
1213 Khi khóe hạnh, khi nét ngài, Khoé hanh: Khoé mắt;mắt sắc như lá hạnh. Khi khoé hạnh, khi nét ngài: ý nói khi mắt liếc, khi mày đưa.
1214 Khi ngâm ngợi nguyệt, khi cười cợt hoa.
1215 Đều là nghề nghiệp trong nhà,
1216 Đủ ngần ấy nết, mới là người soi. Người soi: Người sành sỏi, lịch lãm, biết ngón chơi.
1217 Gót đầu vâng dạy mấy lời,
1218 Dường chau nét nguyệt, dường phai vẻ hồng. Nét nguyệt: Nét lông mày hình vành trăng. Vẻ hồng: Vẻ mặt hồng.
1219 Những nghe nói, đã thẹn thùng,
1220 Nước đời lắm nỗi lạ lùng, khắt khe! Khắt khe: ở đây như nói éo le, quái ác.
1221 Xót mình cửa các, buồng khuê, Các khuê: Do chữ khuê các.
1222 Vỡ lòng, học lấy những nghề nghiệp hay!
1223 Khéo là mặt dạn, mày dày,
1224 Kiếp người đã đến thế này thì thôi!
1225 Thương thay thân phận lạc loài,
1226 Dẫu sao cũng ở tay người biết sao?
1227 Lầu xanh, mới rủ trướng đào, Trướng đào: Màn màu đỏ, phụ nữ thường dùng.
1228 Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người.
1229 Biết bao bướm lả, ong lơi,
1230 Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
1231 Dập dìu lá gió, cành chim, Lá gió cành chim: Lá đưa gió, cành đón chim, chỉ sự đưa đón khách chơi.
1232 Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Khanh. Tổng Ngọc: Người nước Sở, đời chiến quốc, đẹp trai, có những bài Cao đường phú, Thần nữ phú, nói về chuyện mây mưa của thần núi Vu Sơn. Tràng Khanh: (Chính là chữ Trưởng nhưng thường đọc là Trường hay Tràng): Tên tự của Tư Mã Tương Như, người Hán, yêu sắc đẹp của Trác Văn Quân, gảy đàn cầm gợi tình, làm cho nàng đang đêm bỏ nhà chốn theo mình. Tống Ngọc và Tràng Khanh đều giỏi từ phú, là hai người tài tử, do đó, câu này ngụ ý khách đến chơi toàn những hạng phong lưu quý phái.
1233 Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
1234 Giật mình, mình lại thương mình xót xa.
1235 Khi sao phong gấm rủ là,
1236 Giờ sao tan tác như hoa giữa đường?
1237 Mặt sao dày gió dạn sương,
1238 Thân sao bướm chán, ong chường bấy thân?
1239 Mặt người mưa Sở, mây Tần, Mưa Sở mây Tần: Chỉ sự ái ân trai gái.
1240 Những mình nào biết có xuân là gì!
1241 Đôi phen gió tựa, hoa kề, Gió tựa, hoa kề: ý nói những cảnh vui thú ở chốn thanh lâu.
1242 Nửa rèm tuyết ngậm, bốn bề trăng thâu. Tuyết ngậm: Bóng trăng tỏ soi khắp bốn bề. Hai câu 1241-1242 tả bốn cảnh: "gió, hoa, tuyết, trăng" (phong, hoa, tuyết nguyệt).
1243 Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
1244 Người buồn, cảnh có vui đâu bao giờ!
1245 Đòi phen nét vẽ, câu thơ,
1246 Cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa, Trong nguyệt: Trong bóng trăng. Dưới hoa: Dưới dàn hoa. Hai câu 1245-1246 tả bốn thú chơi: gẩy đàn, đánh cờ, ngâm thơ, vẽ tranh, (cầm, kỳ, thi, hoa).
1247 Vui là vui gượng kẻo mà,
1248 Ai tri âm đó, mặn mà với ai?
1249 Thờ ơ gió trúc, mưa mai, Gió trúc mưa mai: Mưa gió chỉ sự ái ân (như nghĩa mưa gió dập vùi) trúc mai chỉ sự bạn. Đây tiếp ý trên: Kiều thờ ơ với tất cả những chuyện mưa gió, trúc mai...
1250 Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân. Giùi mài: Như nói mòn mỏi, thui thủi. Cũng có ý như là bị dập vùi.
1251 Ôm lòng đòi đoạn xa gần,
1252 Chẳng vò mà rối, chẳng giần mà đau!
1253 Nhớ ơn chín chữ cao sâu, Bóng dâu: Bóng mặt trời xế trên ngọn dâu. Sách Hoài nam nữ nói: Mặt trời xế về phía phương Tây, gác bóng trên ngọn cây. Người sau mượn chữ bóng dâu để ví tuổi già.
1254 Một ngày một ngả bóng dâu tà tà.
1255 Dặm ngàn, nước thẳm, non xa, Dặm nghìn: Tức nghìn dặm.
1256 Nghĩ đâu thân phận con ra thế này!
1257 Sân hòe đôi chút thơ ngây Sân hoè: Sân có trồng cây hoè. Vương Hựu đời Tống tự tay trồng ba cây hoè ở sân nhà và nói: "Con cháu ta sau này thế nào cũng làm đến chức tam công" (Thời xưa, ở phía trước sân chầu nhà vua, chỗ ngồi của tam công, có trồng ba cây hoè, nên Vương Đán làm đến tể tướng. Nhân đó, người ta thường nói sân hoè để chỉ những nhà có con cái hiển đạt). Đôi chút thơ ngây: Chỉ Thuý Vân và Vương Quan.
1258 Trân cam, ai kẻ đỡ thay việc mình? Trân cam: Những thức ăn quý báu, ngon ngọt. Hai câu này, ý Kiều nói: Cha mẹ mỗi ngày một già, mà con cái trong nhà, thì sau khi nàng đi iồi, chỉ còn hai em nhỏ dại, lấy ai là người phụng dưỡng trân cam thay mình.
1259 Nhớ lời nguyện ước ba sinh,
1260 Xa xôi ai có thấu tình chăng ai?
1261 Khi về hỏi liễu Chương đài, Chương Đài: theo sách Thái bình quảng ký: Hàn hoành, đời Đường lấy một danh kỳ là Liễu thị ở đường phố Chương Đài, Trường An, sau đi làm quan xa, để vợ ở lại đó ba năm, không đón đi được,có gửi cho Liễu thị bài từ rằng: Chương Đài Liễu, Chương Đài Liễu, đã ưng nhật thanh thanh kim tại phủ? Túng sử trường điều tự cựu thuỳ, đã ưng phan chiết tha nhân thủ! (Cây liễu Chương Đài, cây liễn Chương Đài, ngày trước xanh xanh, nay còn không? Cho dù cành dài vẫn buông rủ như cũ, song có lẽ đã vin vào tay người khác rồi!). Đây ý nói: Khi Kim Trọng đi Liêu Dương hộ tang chú trở về, sẽ hỏi người tình nhân cũ (là Thuý Kiều).
1262 Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay. Cành xuân: Cành xanh đẹp..
1263 Tình sâu mong trả nghĩa dày, Tình sâu: chỉ tình chị em, Nghĩa dày: Chỉ nghĩa vợ chồng. ý Kiều mong Thuý Vân lấy tình chị em thay mình, trả nghĩa cho Kim Trọng.
1264 Hoa kia đã chắp cành này cho chưa? Hoa kia, cành này: "Hoa kia" chỉ Thuý Vân, "cành này" chỉ Kim Trọng.
1265 Mối tình đòi đoạn vò tơ,
1266 Giấc hương quan luống lần mơ canh dài. Hương quan: Quê hương. Giấc hương quan: Giấc mộng về quê hương.
1267 Song sa vò võ phương trời, Song ca: cũng như song the. Xem chú thích 240
1268 Nay hoàng hôn, đã lại mai hôn hoàng. Hoàng hôn: Về chiều tối, khi mặt trời sắp lặn, có ánh vàng vàng, gọi là hoàng hôn.
1269 Lần lần thỏ bạc ác vàng, Thỏ bạc, ác vàng: Như nói "thỏ lặn, ác tà" tức ngày và đêm lần lượt qua đi.
1270 Xót người trong hội đoạn tràng đòi cơn!
1271 Đã cho lấy chữ hồng nhan,
1272 Làm cho, cho hại, cho tàn, cho cân!
1273 Đã đày vào kiếp phong trần,
1274 Sao cho sỉ nhục một lần mới thôi!
1275 Khách du bỗng có một người, Khách du: Khách đi chơi, đi du lãm.
1276 Kỳ Tâm họ Thúc cũng nòi thư hương. Kỳ tâm: Tên của họ Thúc, theo truyện Thanh tâm tài nhân thì Kỳ Tầm là tên tự của Thúc sinh.
1277 Vốn người huyện Tích châu Thường, Huyện Thích, Châu Thường: tức huyện Vô Tích, phủ Thường Châu, thuộc tỉnh Giang Tô (Trung Quốc).
1278 Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri. Nghiêm đường: Tức cha. Cha tính nghiêm nghị, mẹ tính hiền từ, nên người ta gọi cha là "nghiêm đường", "nghiêm phụ", mẹ là "từ mẫu", "từ thân".
1279 Hoa khôi mộ tiếng Kiều nhi, Thiếp hồng: Do chữ hồng tiên, thứ thiếp hồng gửi thăm người đẹp. Hương khuê: Phòng hương, phòng ở của phụ nữ, tục xưa phụ nữ hay dùng hương thơm, nên gọi là "hương khuê".
1280 Thiếp hồng tìm đến hương khuê gửi vào.
1281 Trướng tô giáp mặt hoa đào, Trưởng tô: do chữ lưu tô trưởng, thứ màn có tua kết bằng lông chim năm sắc.
1282 Vẻ nào chẳng mặn nét nào chăng ưa?
1283 Hải đường mơn mởn cành tơ,
1284 Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng.
1285 Nguyệt hoa hoa nguyệt não nùng,
1286 Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?
1287 Lạ gì thanh khí lẽ hằng, Lẽ hằng: Lẽ thường như thế.
1288 Một dây một buộc ai giằng cho ra.
1289 Sớm đào tối mận lân la, Đào mận: Nói bóng sắc đẹp của người con gái.
1290 Trước còn trăng gió sau ra đá vàng. Đá vàng: Chỉ sự đồng tâm gắn bó với nhau.
1291 Dịp đâu may mắn lạ dường,
1292 Lại vừa gặp khoảng xuân đường lại quê.
1293 Sinh càng một tỉnh mười mê,
1294 Ngày xuân lắm lúc đi về với xuân.
1295 Khi gió gác khi trăng sân,
1296 Bầu tiên chuốc rượu câu thần nối thơ. Chuốc: So chữ Chước, rót rượu mời nhau. Nối thơ: Nối câu thơ, do chữ "liên cú" một lối chơi của các tao nhân mặc khách thời xưa, thường hai người, hoặc nhiều người nối lời nhau làm chung một bài thơ.
1297 Khi hương sớm khi trà trưa, Hương sớm, trà trưa: Xông hương buổi sớm, uống trà buổi trưa.
1298 Bàn vây điểm nước đường tơ họa đàn. Bàn vây: Bàn cờ vây. Trung Quốc có hai lối chơi cờ: Vi kỳ: Cờ vây. Tượng kỳ: tức cờ tướng.
1299 Miệt mài trong cuộc truy hoan, Truy hoan: Theo đuổi sự vui chơi.
1300 Càng quen thuộc nết càng dan díu tình.
1301 Lạ cho cái sóng khuynh thành, Sóng khuynh thành: Chỉ cái liếc nhìn của người đàn bà đẹp.
1302 Làm cho đổ quán xiêu đình như chơi.
1303 Thúc sinh quen thói bốc rời, Bốc rời: Tiền rời cứ bốc từng nắm mà chi, không cần đếm là bao nhiêu, ý nói vung phí không tiếc tiền.
1304 Trăm nghìn đổ một trận cười như không.
1305 Mụ càng tô lục chuốt hồng,
1306 Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê. Hơi đồng: Tức mùi tiền bạc. Thời xưa, tiền tiêu đúc bằng đồng, nên nói "đồng" tức là tiền.
1307 Dưới trăng quyên đã gọi hè,
1308 Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông. Lửa lựu: Hoa lựu khi nó nở trông đỏ chói như lửa chỉ cảnh mùa hè.
1309 Buồng the phải buổi thong dong,
1310 Thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa.
1311 Rõ màu trong ngọc trắng ngà!
1312 Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên. Kiều có một thân thể đầy đặn xinh đẹp.
1313 Sinh càng tỏ nét càng khen,
1314 Ngụ tình tay thảo một thiên luật đường. Luật Đường: Tức lối thơ ngữ ngôn luật (luật năm chữ) hay thất ngôn luật (luật bảy chữ), mỗi bài tám câu, năm vần, theo đúng niêm luật bằng trắc. Lối này có từ đời Đường, nên gọi là luật Đường.
1315 Nàng rằng: Vâng biết ý chàng.
1316 Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.
1317 Hay hèn lẽ cũng nối điêu, Nối điêu: Nối đuôi con điêu. "Điêu" là một loài chuột ở rừng núi miền lạnh, đuôi to, lông dài đến một tấc, màu vàng hoặc đen tía. Đời Hán, theo quan chế, các quan hầu cận vua đều đội thứ mũ có cắm đuôi con điêu làm ngù. Đến đời Tần, Triệu Vương Luân cướp ngôi Huệ đế, phong quan tước cho bọn tôi tớ, mỗi khi triệu hội, ngồi đẩy những người đội mũ đuôi điêu, nên người thời ấy đã chê giếu: Điêu bất tức, cầu vĩ tục (đuôi điêu không đủ, lấy đuôi chó nối vào). Người sau nhân chữ cẩu vĩ tục điêu (nối điêu) để chỉ sự việc gì có tính chất học đòi. Chữ "nối điêu" ở đây, là lời Kiều tự khiêm về việc họa lại thơ Thúc sinh.
1318 Nỗi quê nghĩ một hai điều ngang ngang. Nỗi quê: Nỗi lòng nhớ quê hương.
1319 Lòng còn gửi áng mây Vàng. Mây vàng: Nói ý nhớ nhà, do câu thơ cổ: Tần Trung đa bạch vân. Thục trung đa hoàng vân, cố tư gia giả vị chi cư hoàng vân (đất Tần nhiều mây trắng, đất Thục nhiều mây vàng, cho nên nhớ nhà gọi là nhớ mây vàng).
1320 Họa vần xin hãy chịu chàng hôm nay.
1321 Rằng: Sao nói lạ lùng thay!
1322 Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra? Cành kia, cỗi này: Chỉ Kiều và Tú bà. Thúc sinh tưởng Kiều là con đẻ của Tú bà.
1323 Nàng càng ủ đột thu ba, Thu ba: Sóng mùa thu, chỉ con mắt (nói con mắt trong suốt như suối mùa thu).
1324 Đoạn trường lúc ấy nghĩ mà buồn tênh:
1325 Thiếp như hoa đã lìa cành,
1326 Chàng như con bướm lượn vành mà chơi.
1327 Chúa xuân đành đã có nơi, Chúa xuân: Người chủ vường xuân, chủ hoa xuân, đây chỉ Thúc sinh. Câu này ý nói: Thúc Sinh ở nhà đã có vợ rồi.
1328 Vắn ngày thôi chớ dài lời làm chi.
1329 Sinh răng: Từ thuở tương tri, Tương tri: Hiểu biết nhau thông cảm với nhau.
1330 Tấm riêng riêng những nặng vì nước non. Nước non: Sông núi tức lời thề nguyền kết làm vợ chồng.
1331 Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
1332 Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
1333 Nàng rằng: Muôn đội ơn lòng.
1334 Chút e bên thú bên tòng dễ đâu. Thú, tòng: Thú là "thú thiếp": lấy vợ lẽ, chỉ bên Thúc sinh;tòng "tòng lương": trở về lương, tức bỏ chỗ lầu xanh để trở về, đi lấy chồng, chỉ bên Kiều. Hai bên cùng gặp nhiều khó khăn.
1335 Bình Khang nấn ná bấy lâu, Bình khang: Đời Đường, ở kinh thành Trường an, gần cửa Bắc, có một xóm gọi là Bình Khang cho kỹ nữ ở, sau nhân dùng làm danh từ chỉ chung xóm kỹ nữ.
1336 Yêu hoa yêu được một màu điểm trang.
1337 Rồi ra lạt phấn phai hương,
1338 Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?
1339 Vả trong thềm quế cung trăng, Thềm quế: Thềm điện quế. Dâu đương tạp trở chép: Trên mặt trăng có cây quế tiêu, cao năm trăm trượng, do đó, khi tả mặt trăng, người ta thường dùng chữ điện quế, cung quế.
1340 Chủ trương đành đã chị Hằng ở trong. Chị Hằng: Chị Hằng Nga, người chủ trương trong điện quế, nói bóng vợ cả Thúc sinh.
1341 Bấy lâu khăng khít dải đồng, Giải đồng: Giải đồng tâm.
1342 Thêm người người cũng chia lòng riêng tây. Thêm người, người cũng... chữ người chỉ Kiều, chữ người dưới chỉ Thúc sinh.
1343 Vẻ chi chút phận bèo mây, Bèo mây: Nói thân phận trôi nổi bất định như bèo mặt nước, mây trên không.
1344 Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. Bể ái: Bể ân ái, tức tình yêu vợ chồng.
1345 Trăm điều ngang ngửa vì tôi,
1346 Thân sau ai chịu tội trời ấy cho?
1347 Như chàng có vững tay co, Vững tay co: Cái tay co vững. Kiều nói: Nếu chàng có cứng tay, tức có quyền lực đối với vợ cả.
1348 Mười phần cũng đắp điếm cho một vài.
1349 Thế trong dầu lớn hơn ngoài, Trong ngoài: Chỉ vợ cả và Thúc sinh. Theo lễ giáo xưa: Nam t ự ngoại, nữ tự nội: Đàn ông trong coi việc bên ngoài, đàn bà trông coi việc trong nhà. ý Kiều nói: Nếu thế lực vợ cả lớn hơn thế lực chàng.
1350 Trươc hàm sư tử gửi người đằng la. Hàm sư tử: Đời Tống, Trần Tháo, hiệu Long Khâu cư sĩ, hay nói chuyện đạo Phật, vợ là Liễu thị, tính dữ tợn mà cả ghen, mỗi khi Tháo thết tiệc tân khách, có ca kỹ, thì ở trong nhà, Liễu thị lấy gậy đập vào vách, hò hét, khách phải giải tán. Tồ Thức, Bạn Tháo, viết mấy câu thơ đùa:"Thuỳ tự Long Khâu cư sĩ hiền, Đàm không thuyết hữu dạ bất miên, Hốt văn Hà Đông sư tử hồng. Trụ trượng lạc thủ tấm mang nhiên". Dịch nghĩa: "Ai giỏi như Long Khâu cư sĩ, Nói những thuyết không, thuyết có, đếm không ngủ. Bỗng nghe sử tử Hà Đông rống lên. Tay rơi gậy chống, lòng bàng hoàng.”. Đằng la: Những loài dây leo (chính nghĩa là dây bim, dây tơ hồng) dây dùng như chữ cát đằng dây bìm, ví với phận lẽ mọn.
1351 Cúi đầu luồn xuống mái nhà,
1352 Giấm chua lại tội băng ba lửa nồng. Một số cố lão ở Nghệ - Tĩnh thuộc hai chữ đầu câu này là Dấm vùi hay Nhúm vùi. ý nói: lửa bếp vùi âm ỉ cháy (chỉ thói ghen tuông) còn khó chịu hơn cả lửa hồng.
1353 Ở trên còn có nhà thông, Nhà thông: Nhà thung, đọc chệch ra, tức nhà xuân, do chữ xuân đường chỉ bố Thúc sinh.
1354 Lượng trên trong xuống biết lòng có thương?
1355 Sá chi liễu ngõ hoa tường? Liễu ngõ, hoa tường: Nói ví gái lầu xanh như liễu bên đường, hoa đầu tường, ai vin ai hái cũng được.
1356 Lầu xanh lại bỏ ra phường lầu xanh.
1357 Lại càng dơ dáng dại hình,
1358 Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.
1359 Thương sao cho vẹn thì thương.
1360 Tính sao cho vẹn mọi đường xin vâng.
1361 Sinh rằng: Hay nói đè chừng!
1362 Lòng đây lòng đấy chưa từng hay sao?
1363 Đường xa chớ ngại Ngô Lào, Ngô, Lào: Nước Ngô (Trung Quốc), nước Lào (Ai Lao) tác giả dùng nghĩa bóng. ý nói: Đừng nghĩ ngợi xa xôi, quanh quẩn làm gì.
1364 Trăm điều hãy cứ trông vào một ta.
1365 Đã gần chi có điều xa?
1366 Đá vàng đã quyết phong ba cũng liều. Phong ba: Sóng gió, chỉ sự bất trắc xẩy ra.
1367 Cùng nhau căn vặn đến điều,
1368 Chỉ non thề bể nặng gieo đến lời.
1369 Nỉ non đêm ngắn tình dài,
1370 Ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương. Non đoài: Núi ở phía tây.
1371 Mượn điều trúc viện thừa lương, Trúc viện: Viện trúc, nơi nghỉ mát có trồng trúc xung quanh. Thừa lương: Hóng mát, nghỉ mát, Thúc sinh mượn cớ là đưa Kiều đi hóng mát.
1372 Rước về hãy tạm giấu nàng một nơi.
1373 Chiến hòa sắp sẵn hai bài, Chiến, hoà: ở đây, chiến là dịa chuyện kiện cáo, hoà là lựa cách điều đình. Theo Kim vân Kiều truyện của Thanh Tầm: Thúc sinh đưa Kiều về ở nhà Hoa Dương, một tay hào phú xứ ấy, rồi một mặt cậy Hoa Dương rêu rao về tội mua con gái nhà lương thiện về làm gái điếm, một mặt mượn Bộ Tần đến đièu đình việc chuộc Kiều ra khỏi lầu xanh.
1374 Cậy tay thầy thợ mượn người dò la.
1375 Bắn tin đến mặt Tú bà,
1376 Thua cơ mụ cũng cầu hòa dám sao. Thua cơ: Thua mưu, thua mẹo của Thúc sinh.
1377 Rõ ràng của dẫn tay trao,
1378 Hoàn lương một thiếp thân vào cửa công. Hoàn lương: Gái đĩ bỏ nghề cũ trở về đời lương thiện.
1379 Công tư đôi lẽ đều xong,
1380 Gót tiên phút đã thoát vòng trần ai. Trần ai: Bụi bậm chỉ cảnh lầu xanh.
1381 Một nhà sum họp trúc mai, Trúc, mai: Chỉ sự giao kết thân mật của vợ chồng.
1382 Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
1383 Hương càng đượm lửa càng nồng, Hương lửa: Chỉ tình duyên vợ chồng.
1384 Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen. Ngọc sen: Hai câu tỏ ý "sum họp" mai trúc đã về một nhà.
1385 Nửa năm hơi tiếng vừa quen,
1386 Sân ngô cành biếc đã chen lá vàng. Sân ngô: Sân có trồng cây ngô đồng. Ngô đồng là một loài cây cao, cành lá xanh biếc, nên thường gọi là bích ngô chen lá vàng giữa chòm lá xanh biếc, tức trời đã sang thu.
1387 Giậu thu vừa nảy giò sương, Giậu thu: Giậu hoa mùa thu. Giò sương: giò hoa chịu được sương, ý chỉ hoa cúc.
1388 Gối yên đã thấy xuân đường đến nơi.
1389 Phong lôi nổi trận bời bời, Phong lôi: gió, sấm, nói cơn giận nổi lên dữ dội như gió, như sấm.
1390 Nặng lòng e ấp tính bài phân chia. Nặng lòng e ấp: Thúc ông trong lòng lấy làm e sợ về việc để cho con gái lầu xanh như thế, vì không những làm xấu thanh danh nhà mình, mà đối với Hoạn thư cũng sẽ có chuyện lôi thôi.
1391 Quyết ngay biện bạch một bề, Biện bạch: ở đây nghĩa là phán bảo minh mạch, rành rọt.
1392 Dạy cho má phấn lại về lầu xanh.
1393 Thấy lời nghiêm huấn rành rành, Nghiêm huấn: Lời dạy của bố.
1394 Đánh liều sinh mới lấy tình nài kêu.
1395 Rằng: Con biết tội đã nhiều,
1396 Đẫu rằng sấm sét búa rìu cũng cam. Sấm sét: Do chữ lôi đình, chỉ sự ra uy, như quát mắng đánh đập. Búa rìu: Do chữ phủ việt, chỉ dự gia hình, ý cả câu: Dẫu đánh mắng hay giết chết cũng xin chịu.
1397 Trót vì tay đã nhúng chàm, Tay đã nhúng chàm: Cái tay đã nhúng vào chàm, thì dù rút ra cũng bị nhuốm chàm xanh rồi.
1398 Dại rồi còn biết khôn làm sao đây.
1399 Cùng nhau vả tiếng một ngày,
1400 Ôm cầm ai nỡ dứt dây cho đành. Đã lấy nhau thành vợ chồng thì nỡ nào lại lìa bỏ, cũng như nỡ ôm đàn cầm mà gẩy thì nỡ nào lại đứt dây cho được.
1401 Lượng trên quyết chẳng thương tình,
1402 Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. Bạc đen: Chưa thực rõ nghĩa. Có người giải bạc đen là sống chết cũng liều.
1403 Thấy lời sắt đá tri tri,
1404 Sốt gan ông mới cáo quì cửa công. Sốt gan: Nóng gan, như nói nóng tiết. Cáo quỳ: Cáo là thưa trình, quì là quì gối, tức quì gối mà đề đơn thưa trình. Lệ xưa, ai vào quan thưa trình việc gì, phải quì gối trước công đường đầu đội lá đơn.
1405 Đất bằng nổi sóng đùng đùng, Đất bằng nối sóng: Do chữ Bình địa ba đào.
1406 Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra. Phủ đường: Dinh quan phủ, ở đầy chỉ quan phủ. Phiếu hồng: Tờ trát của quan. Thôi tra: Đòi lên xét hỏi.
1407 Cùng nhau theo gót sai nha,
1408 Song song vào trước sân hoa lạy quì. Sân hoa: Sân phủ đường (chữ hoa ở đây chỉ đặt cho đẹp lời)
1409 Trông lên mặt sắt đen sì, Mặt sắt: Do chữ thiết diện, mặt đen và cứng rắn như sắt, thường mượn để chỉ một vị quan cương trực, nghiêm nghị.
1410 Lập nghiêm trước đã ra uy nặng lời:
1411 Gã kia dại nết chơi bời,
1412 Mà con người thế là người đong đưa.
1413 Tuồng chi hoa thải hương thừa,
1414 Mượn màu son phấn đánh lừa con đen.
1415 Suy trong tình trạng nguyên đơn, Nguyên đơn: Đơn của người nguyên cáo, tức Thúc ông (Thúc sinh và Kiều là bị cáo).
1416 Bề nào thì cũng chưa yên bề nào.
1417 Phép công chiếu án luận vào.
1418 Có hai đường ấy muốn sao mặc mình.
1419 Một là cứ phép gia hình, Gia hình: Gia hình có nghĩa là bắt phải chịu tội, hình phạt, ở đây là phạt trượng tức dùng trường (gậy) mà đánh.
1420 Một là lại cứ lầu xanh phó về.
1421 Nàng rằng: đã quyết một bề!
1422 Nhện này vương lấy tơ kia mấy lần. Kiều nói: Đã quyết tình hoàn lương rồi, không muốn lại lần nữa mắc vào cảnh lầu xanh, như con nhện lại vướng víu vào lưới tơ thêm một lần nữa.
1423 Đục trong thân cũng là thân. Đục, trong: ý nói: dù đục hay trong, dù dở hay hay.
1424 Yếu thơ vâng chịu trước sân lôi đình! Yếu thơ: Yếu ớt, thơ dại. Lôi đình: Sấm sét, chỉ hình phạt.
1425 Dạy rằng: Cứ phép gia hình!
1426 Ba cây chập lại một cành mẫu đơn. Ba cây: Do chữ tam mộc là thứ hình cụ thể bằng gỗ thời xưa, tức già, nữu giới (cái gông cổ, cái kẹp tay và cái cùm chân). ở đây, chữ bạ cây, chỉ các hình phạt dồn vào cái thân yếu ớt của Kiều. Mẫu đơn: Cành hoa đẹp ví nói Kiều.
1427 Phận đành chi dám kêu oan,
1428 Đào hoen quẹn má liễu tan tác mày.
1429 Một sân lầm cát đã đầy,
1430 Gương lờ nước thủy mai gầy vóc sương.
1431 Nghĩ tình chàng Thúc mà thương,
1432 Nẻo xa trông thấy lòng càng xót xa.
1433 Khóc rằng: Oan khốc vì ta!
1434 Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau.
1435 Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu.
1436 Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.
1437 Phủ đường nghe thoảng vào tai, Phủ đường: chỉ vào quan phủ.
1438 Động lòng lại gạn đến lời riêng tây.
1439 Sụt sùi chàng mới thưa ngay,
1440 Đầu đuôi kể lại sự ngày cầu thân: Cầu thân: Cầu làm thân, nói việc định lấy nhau.
1441 Nàng đà tính hết xa gần,
1442 Từ xưa nàng đã biết thân có rày.
1443 Tại tôi hứng lấy một tay,
1444 Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.
1445 Nghe lời nói cũng thương lời,
1446 Dẹp uy mới dạy cho bài giải vi. Giải vi: Cởi, gỡ vòng vây ra, đây ý nói gỡ cho ra lối thoát để giải quyết việc rắc rối này.
1447 Rằng: Như hẳn có thế thì
1448 Trăng hoa song cũng thị phi biết điều.
1449 Sinh rằng: Chút phận bọt bèo,
1450 Theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên.
1451 Cười rằng: đã thế thì nên!
1452 Mộc già hãy thử một thiên trình nghề. Mộc già: Cái gông. Đầu đề bài thơ là vịnh cái gông.
1453 Nàng vâng cất bút tay đề,
1454 Tiên hoa trình trước án phê xem tường.
1455 Khen rằng: Giá đáng Thịnh đường! Giá đáng Thình Đường: ý nói tương đương với thơ Thịnh Đường. Thịnh Đường: là giai đoạn phồn thịnh nhất thơ của triều đại nhà Đường, Trung Quốc;
1456 Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân!
1457 Thật là tài tử giai nhân,
1458 Châu Trần còn có Châu Trần nào hơn? Châu Trần: ở châu Từ, về huyện Phong, xưa kia có họ Châu và họ Trần, đời đời làm thông gia với nhau, về sau người ta dùng hai chữ Châu Trần để nói sự lấy nhau đẹp đôi xứng lứa.
1459 Thôi đừng rước dữ cưu hờn, Rước dữ cưu hờn: Mua rước lây điều dữ và cưu mang lây sự hờn giận.
1460 Làm chi lỡ nhịp cho đòn ngang cung.
1461 Đã đưa đến trước cửa công,
1462 Ngoài thì là lý song trong là tình.
1463 Dâu con trong đạo gia đình,
1464 Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.
1465 Kíp truyền sắm sửa lễ công,
1466 Kiệu hoa cất gió đuốc hồng điểm sao.
1467 Bày hàng cổ xúy xôn xao, Cổ xuý: Cổ là những nhạc khí dùng để đánh như chiêng, trống. Xuý là những nhạc khí để thổi, như kèn sáo.
1468 Song song đưa tới trướng đào sánh đôi. Trường đào: Màn hoa đào, đây tức là buồng cưới.
1469 Thương vì hạnh trọng vì tài,
1470 Thúc ông thôi cũng dẹp lời phong ba. Huệ lan: Hoa huệ, hoa lan, ngụ ý nói cảnh sum họp.
1471 Huệ lan sực nức một nhà,
1472 Từng cay đắng lại mặn mà hơn xưa.
1473 Mảng vui rượu sớm cờ trưa, Mảng: Tiếng cổ có ý nói mải mê về một việc gì mà quên đi. ở đây là nghĩa này.
1474 Đào đà phai thắm sen vừa nẩy xanh. Hết mùa xuân và bắt đầu sang mùa hạ
1475 Trướng hồ vắng vẻ đêm thanh,
1476 E tình nàng mới bày tình riêng chung:
1477 Phận bồ từ vẹn chữ tòng,
1478 Đổi thay nhạn yến đã hòng đầy niên. Chim én (mùa xuân) chim nhạn (mùa thu), đổi thay nhau, ý nói từ mùa nọ sang mùa kia. ở đây ý nói thời gian trôi thấm thoắt gần được một năm.
1479 Tin nhà ngày một vắng tin,
1480 Mặn tình cát lũy lạt tình tào khang. Tao khang: bã rượu cám. Người vự cùng ăn bã, ăn cám với nhau, tức là - người vợ cả lấy từ lúc còn hàn vi. Vua Quang Vũ nhà Hán muốn đem người chị gái mới goá là công chúa Hồ Dương gả cho Tống Hoằng, nhưng Hoằng đã có vợ. Vua hỏi ý Hoằng, Hoằng thưa: Tao khang chi thê, bất hạ đường, nghĩa là người vợ lấy trong lúc ăn tấm, ăn cám, không thể để xuống dưới nhà, ý nói không thể khinh rẻ, phụ bạc. Vua biết ý vậy, liền thôi.
1481 Nghĩ ra thật cũng nên đường,
1482 Tăm hơi ai dễ giữ giàng cho ta?
1483 Trộm nghe kẻ lớn trong nhà,
1484 Ở vào khuôn phép nói ra mối đường.
1485 E thay những dạ phi thường, Phi thường: khác với người thường, ý nói người sâu sắc, hiểm độc.
1486 Dễ dò rốn bể khôn lường đáy sông!
1487 Mà ta suốt một năm ròng,
1488 Thế nào cũng chẳng giấu xong được nào.
1489 Bấy chầy chưa tỏ tiêu hao,
1490 Hoặc là trong có làm sao chăng là?
1491 Xin chàng kíp liệu lại nhà,
1492 Trước người đẹp ý sau ta biết tình.
1493 Đêm ngày giữ mức giấu quanh,
1494 Rày lần mai lữa như hình chưa thông.
1495 Nghe lời khuyên nhủ thong dong,
1496 Đành lòng sinh mới quyết lòng hồi trang. Hồi trang: Về quê.
1497 Rạng ra gửi đến xuân đường,
1498 Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia. Ninh gia: Về thăm nhà.
1499 Tiễn đưa một chén quan hà, Quan hà: Quan cửa ải, hà là sông. Chén quan hà: Chén rượu tiễn biệt.
1500 Xuân đình thoắt đã dạo ra cao đình. Xuân đình: Có thể hiểu là nơi xum họp, vui vẻ. Cao đình: Cổ thi: Cao đình tương biệt xứ, chỗ biệt nhau ở Cao đình.
1501 Sông Tần một dải xanh xanh, Sông Tần: Sông ở đất Tần Xuyên, mạn tỉnh Cam Túc. Theo Tản Đà thì sông Tần là sông Tần Hoài, thuộc tỉnh Giang Tồ, quê Thúc Sinh (Vô Tích).
1502 Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan. Dương quan: Tên một cửa ải ở biên giới tỉnh Thiểm Tây, mạn tây bắc Trung Quốc.
1503 Cầm tay dài ngắn thở than,
1504 Chia phôi ngừng chén hợp tan nghẹn lời.
1505 Nàng rằng: Non nước xa khơi,
1506 Sao cho trong ấm thì ngoài mới êm.
1507 Dễ lòa yếm thắm trôn kim, Yến thắm trôn kim: Chưa thực rõ nghĩa. Đại ý câu này nói: Kiều cho rằng việc hai người lấy nhau là việc không thể dấu kín được.
1508 Làm chi bưng mắt bắt chim khó lòng! Bưng mắt bắt chim: Bưng mắt lại thì không thể nào bắt được chim. ý nói không thể nào che giấu nổi việc có vợ lẽ.
1509 Đôi ta chút nghĩa đèo bòng, Đèo bòng: Có nghĩa là vương vít tình duyên.
1510 Đến nhà trước liệu nói sòng cho minh. Nói sòng: Tức nói thẳng, nói trắng ra, không quanh co giấu giếm.
1511 Dù khi sóng gió bất tình,
1512 Lớn ra uy lớn tôi đành phận tôi.
1513 Hơn điều giấu ngược giấu xuôi.
1514 Lại mang những việc tày trời đến sau.
1515 Thương nhau xin nhớ lời nhau,
1516 Năm chầy cũng chẳng đi đâu mà chầy.
1517 Chén đưa nhớ bữa hôm nay,
1518 Chén mừng xin đợi ngày này năm sau!
1519 Người lên ngựa kẻ chia bào, Bào: áo. Thường thường trong khi ly biệt người ta hhay nắm lấy áo nhau, tỏ tình quyến luyến. Chia bào tức là buông áo.
1520 Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san. Phong: Một loại cây ở Trung Quốc, lá chia ra nhiều cành, gần giống lá cây thầu dầu ở bên ta, đến mùa thu thì sắc lá hoá đỏ. Quan san: Quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở.
1521 Dặm hồng bụi cuốn chinh an, Dặm hồng: Dặm đường đi giữa bụi hồng. Chinh là đi đường xa, an là yên ngựa. Người ta thường dùng hai chữ chinh an để chỉ việc đi đường xa.
1522 Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh.
1523 Người về chiếc bóng năm canh,
1524 Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi.
1525 Vầng trăng ai xẻ làm đôi,
1526 Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
1527 Kể chi những nỗi dọc đường,
1528 Buồn trong này nỗi chủ trương ở nhà: Buồng trong: Chỉ vào người vợ. Cây này đại ý nói: Bây giờ hãy nói đến người vợ Thúc sinh làm chủ gia đình ở quê nhà.
1529 Vốn dòng họ Hoạn danh gia,
1530 Con quan Lại bộ tên là Hoạn thư. Lại bộ: Bộ lại, tức là quan trọng nhất trong sáu bộ của triều đình phong kiến.
1531 Duyên đằng thuận nẻo gió đưa, Duyên Đằng: Cổ thi: Thời lai phong tống Đằng vương các (Thời vận đến, gí đưa lại gác Đằng Vương). ý nói gặp cơ hội may mắn.
1532 Cùng chàng kết tóc xe tơ những ngày.
1533 Ở ăn thì nết cũng hay,
1534 Nói điều ràng buộc thì tay cũng già. Ràng buộc: Có nghĩa là thắt buộc, cho người khác vào khuôn, vào phép của mình.
1535 Từ nghe vườn mới thêm hoa, Vườn mới thêm hoa: ý nói Thúc sinh có thêm vợ lẽ.
1536 Miệng người đã lắm tin nhà thì không.
1537 Lửa tâm càng dập càng nồng,
1538 Trách người đen bạc ra lòng trăng hoa: Đen bạc: Cùng nghĩa như bạc bẽo, phụ bạc. Trăng hoa: Do chữ hoa nguyệt mà ra, ý chỉ sự chơi bời trai gái.
1539 Ví bằng thú thật cùng ta,
1540 Cũng dung kẻ dưới mới là lượng trên.
1541 Dại chi chẳng giữ lấy nền, Nền: Nền nếp của người trên, tư thế của mình là người bề trên.
1542 Tốt chi mà rước tiếng ghen vào mình?
1543 Lại còn bưng bít giấu quanh,
1544 Làm chi những thói trẻ ranh nực cười!
1545 Tính rằng cách mặt khuất lời,
1546 Giấu ta ta cũng liệu bài giấu cho!
1547 Lo gì việc ấy mà lo,
1548 Kiến trong miệng chén có bò đi đâu?
1549 Làm cho nhìn chẳng được nhau,
1550 Làm cho đầy đọa cất đầu chẳng lên!
1551 Làm cho trông thấy nhãn tiền, Nhãn tiền: Trước mắt.
1552 Cho người thăm ván bán thuyền biết tay. Tục ngữ: Chưa thăm ván đã bán thuyền. ở đây chỉ Thúc sinh là người mới nới cũ.
1553 Nỗi lòng kín chẳng ai hay,
1554 Ngoài tai để mặc gió bay mái ngoài.
1555 Tuần sau bỗng thấy hai người,
1556 Mách tin ý cũng liệu bài tâng công.
1557 Tiểu thư nổi giận đùng đùng:
1558 Gớm tay thêu dệt ra lòng trêu ngươi!
1559 Chồng tao nào phải như ai,
1560 Điều này hẳn miệng những người thị phi! Thị phi: Có nghĩa là việc phải thì nói thành trái, việc trái thì nói thành phải, thêu dệt phải trái làm cho người nghe mắc lầm.
1561 Vội vàng xuống lệnh ra uy,
1562 Đứa thì vả miệng đứa thì bẻ răng.
1563 Trong ngoài kín mít như bưng.
1564 Nào ai còn dám nói năng một lời!
1565 Buồng đào khuya sớm thảnh thơi,
1566 Ra vào một mực nói cười như không.
1567 Đêm ngày lòng những dặn lòng,
1568 Sinh đà về đến lầu hồng xuống yên. Lầu hồng: Do chữ hồng lâu, nhà ở bọn quyền quý, cũng dùng để chỉ chỗ ở của hạng phụ nữ giàu sang.
1569 Lời tan hợp nỗi hàn huyên,
1570 Chữ tình càng mặn chữ duyên càng nồng.
1571 Tẩy trần vui chén thong dong, Tẩy trần: Rửa bụi. Tục xưa, khi có người đi xa về thì đặt tiệc "tẩy trần", ý nói rửa sạch bụi bặm trong lúc đi đường.
1572 Nỗi lòng ai ở trong lòng mà ra.
1573 Chàng về xem ý tứ nhà,
1574 Sự mình cũng rắp lân la giãi bày.
1575 Mấy phen cười nói tỉnh say,
1576 Tóc tơ bất động mảy may sự tình.
1577 Nghĩ đà bưng kín miệng bình,
1578 Nào ai có khảo mà mình đã xưng? Khảo: Tra khảo.
1579 Những là e ấp dùng dằng,
1580 Rút dây sợ nữa động rừng lại thôi. Rút dây động rừng: Tục ngữ, ý nói rút một sợi dây làm rung chuyển đến cả một khu rừng. Câu này ý nói: Thúc sinh sợ nói lộ câu chuyện lấy Kiều ra sẽ gây nên sóng gió trong gia đình.
1581 Có khi vui chuyện mua cười,
1582 Tiểu thư lại giở những lời đâu đâu.
1583 Rằng: Trong ngọc đá vàng thau, Đại ý nói ngọc hay đã, vàng hay thau đôi ta đều đã biết phân biệt rạch ròi, không thể nào lầm lẫn được.
1584 Mười phần ta đã tin nhau cả mười.
1585 Khen cho những chuyện dông dài,
1586 Bướm ong lại đặt những lời nọ kia.
1587 Thiếp dù bụng chẳng hay suy,
1588 Đã dơ bụng nghĩ lại bia miệng cười!
1589 Thấy lời thủng thỉnh như chơi,
1590 Thuận lời chàng cũng nói xuôi đỡ đòn.
1591 Những là cười phấn cợt son,
1592 Đèn khuya chung bóng trăng tròn sánh vai.
1593 Thú quê thuần hức bén mùi, Thuần: là một thứ rau, hức là một thứ cá. Trương Hàn đời nhà Tấn, đang lúc làm quan ở xa, thấy cơn gió thu, sực nhớ đến canh rau thuần và chả cá hức ở quê nhà, bèn bỏ quan mà về. Vì thế, người ta thường dùng hai chữ thuần hức để chỉ thú vui chơi nơi quê nhà.
1594 Giếng vàng đã rụng một vài lá ngô. Cổ thi: Ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cọng tri thu: (chỉ một lá ngô đồng rụng mà ai cũng biết là thu sang). Câu này đại ý nói: Thúc sinh ở quê nhà vừa bén mùi rau cá thì trời đã bắt đầu sang thu.
1595 Chạnh niềm nhớ cảnh giang hồ,
1596 Một màu quan tái mấy mùa gió trăng. Quan tái: cũng như quan ải, chỉ nơi núi non bờ cõi.
1597 Tình riêng chưa dám rỉ răng,
1598 Tiểu thư trước đã liệu chừng nhủ qua:
1599 Cách năm mây bạc xa xa, Mây bạc: Do chữ bạch vân mà ra. Định Nhân Kiệt đời Đường đi làm quan xa, thường chỉ đám mây trên núi Thái Hàng mà nói: "Nhà cha mẹ ta ở đây". ở đây dùng để nói Thúc sinh có cha ở xa.
1600 Lâm Tri cũng phải tính mà thần hôn.
1601 Được lời như cởi tấc son,
1602 Vó câu chẳng ruổi nước non quê người.
1603 Long lanh đáy nước in trời,
1604 Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng.
1605 Roi câu vừa gióng dặm trường,
1606 Xe hương nàng cũng thuận đường quy ninh. Xe hương: Do chữ Hương xa, chỉ xe của phụ nữ. Quy ninh là về hỏi thăm sức khoẻ của cha mẹ.
1607 Thưa nhà huyên hết mọi tình,
1608 Nỗi chàng ở bạc nỗi mình chịu đen.
1609 Nghĩ rằng: Ngứa ghẻ hờn ghen, Thành ngữ: Ngứa ghẻ hờn ghen ý nói hai điều khó chịu nhất.
1610 Xấu chàng mà có ai khen chi mình!
1611 Vậy nên ngảnh mặt làm thinh,
1612 Mưu cao vốn đã rắp ranh những ngày.
1613 Lâm Tri đường bộ tháng chầy,
1614 Mà đường hải đạo sang ngay thì gần. Hải đạo: Đường biển.
1615 Dọn thuyền lựa mặt gia nhân,
1616 Hãy đem dây xích buộc chân nàng về.
1617 Làm cho cho mệt cho mê,
1618 Làm cho đau đớn ê chề cho coi!
1619 Trước cho bõ ghét những người,
1620 Sau cho để một trò cười về sau.
1621 Phu nhân khen chước rất mầu, Mầu: Mầu nhiệm: Mẹ Hoạn thư khen cái mưu ấy rất điệu rất hay.
1622 Chiều con mới dạy mặc dầu ra tay.
1623 Sửa sang buồm gió lèo mây, Buồm: Lá buồm. Lèo: dây treo buồm.
1624 Khuyển ưng lại chọn một bầy côn quang. Khuyển: chó, Ưng: chim cắt, hai loài vật dùng để đi săn. ở đây dùng để đặt tên cho bọn tôi tớ trung thành của họ Hoạn. Côn quang: Cũng như côn đồ, dùng để chỉ bọn vô lại.
1625 Dặn dò hết các mọi đường,
1626 Thuận phong một lá vượt sang bến Tề. Thuận phong: Thuận gió. Một lá: Một lá buồm, Kiều lúc ấy đang ở Lâm Tri, Lâm Tri nguyên là kinh đô nước Tề xưa, nên gọi là bến Tề.
1627 Nàng từ chiếc bóng song the,
1628 Đường kia nỗi nọ như chia mối sầu.
1629 Bóng đâu đã xế ngang đầu,
1630 Biết đâu ấm lạnh biết đâu ngọt bùi. Ấm lạnh: Do chữ Ôn sảnh (Đông ôn hạ sảnh), ngọt bùi do chữ cam chỉ, ý nói làm con phải quạt nồng ấm lạnh và phụng dưỡng những thức ngon lành cho cha mẹ.
1631 Tóc thề đã chấm ngang vai,
1632 Nào lời non nước nào lời sắt son. Lời non nước: Lời chỉ non thề biển. Lời sắt son: Lời trung thành vững chắc như sắt như son.
1633 Sắn bìm chút phận cỏn con, Sắn bìm: Do chữ cát đằng mà ra. Xem chú thích 902
1634 Khuôn duyên biết có vuông tròn cho chăng?
1635 Thân sao nhiều nỗi bất bằng,
1636 Liều như cung Quảng ả Hằng nghĩ nao! Cung Quảng: Cung Quảng hàn trong mặt trăng, ả Hằng tức ả Hằng Nga trong cung. Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ, trộm thuốc trường sinh của chồng rồi chạy lên ở một mình trên cung trăng;Câu này đại ý nói: Thôi thì liều sống một mình như Hằng Nga trong cung Quảng Hàn vậy.
1637 Đêm thu gió lọt song đào,
1638 Nửa vành trăng khuyết ba sao giữa trời. Ba sao: Do chữ Kinh Thi: Tam tinh tại thiên (ba sao ở trời). ở đây tác giả chỉ mượn câu ấy để nói đêm đó ngoài song gió thổi, giữa trời có trăng có sao v.v...
1639 Nén hương đến trước Phật đài,
1640 Nỗi lòng khấn chửa cạn lời vân vân.
1641 Dưới hoa dậy lũ ác nhân,
1642 Ầm Ầm khốc quỷ kinh thẦn mọc ra. Khốc quỷ kinh thần: Quỷ thần khóc, thần phải sợ, ý nói rất ghê sợ.
1643 Đầy sân gươm tuốt sáng lòa,
1644 Thất kinh nàng chửa biết là làm sao.
1645 Thuốc mê đâu đã rưới vào,
1646 Mơ màng như giấc chiêm bao biết gì.
1647 Vực ngay lên ngựa tức thì,
1648 Phòng đào viện sách bốn bề lửa dong.
1649 Sẵn thây vô chủ bên sông,
1650 Đem vào để đó lộn sòng ai hay?
1651 Tôi đòi phách lạc hồn bay,
1652 Pha càn bụi cỏ gốc cây ẩn mình.
1653 Thúc ông nhà cũng gần quanh,
1654 Chợt trông ngọn lửa thất kinh rụng rời.
1655 Tớ thầy chạy thẳng đến nơi,
1656 Tơi bời tưới lửa tìm người lao xao.
1657 Gió cao ngọn lửa càng cao,
1658 Tôi đòi tìm đủ nàng nào thấy đâu!
1659 Hớt hơ hớt hải nhìn nhau,
1660 Giếng sâu bụi rậm trước sau tìm quàng.
1661 Chạy vào chốn cũ phòng hương,
1662 Trong tro thấy một đống xương cháy tàn.
1663 Tình ngay ai biết mưu gian,
1664 Hẳn nàng thôi lại còn bàn rằng ai!
1665 Thúc ông sùi sụt ngắn dài,
1666 Nghĩ con vắng vẻ thương người nết na.
1667 Di hài nhặt gói về nhà, Di hài: Hài cốt sót lại.
1668 Nào là khâm liệm nào là tang trai. Khâm liệm: Lễ mặc quần áo mới và bọc vải lụa cho người chết trước khi bỏ vào áo quan. Tang trai: Lễ đưa ma và làm chay.
1669 Lễ thường đã đủ một hai,
1670 Lục trình chàng cũng đến nơi bấy giờ. Lục trình: Đi đường bộ.
1671 Bước vào chốn cũ lầu thơ,
1672 Tro than một đống nắng mưa bốn tường.
1673 Sang nhà cha tới trung đường, Trung đường: Nhà chính giữa.
1674 Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên. Linh sàng: Giường thờ. Bài vị: Mảnh gỗ viết tên người chết để thờ.
1675 Hỡi ôi nói hết sự duyên,
1676 Tơ tình đứt ruột lửa phiền cháy gan!
1677 Gieo mình vật vã khóc than:
1678 Con người thế ấy thác oan thế này.
1679 Chắc rằng mai trúc lại vầy,
1680 Ai hay vĩnh quyết là ngày đưa nhau! Vĩnh quyết: Cũng như vĩnh biệt, từ biệt hẳn, không bao giờ gặp nhau nữa.
1681 Thương càng nghĩ nghĩ càng đau,
1682 Dễ ai lấp thảm quạt sầu cho khuây.
1683 Gần miền nghe có một thầy,
1684 Phi phù trí quỷ cao tay thông huyền. Phi phù trí quỷ: đốt bùa mà gọi được quỷ đến. Thông huyền: Thông cảm được với cõi huyền bí, tức cõi quỷ thần.
1685 Trên tam đảo dưới cửu tuyền, Tam đảo: Ba đảo tiên: Bồng lai, Phương Trượng, Doanh Châu. Người ta thường dùng để chỉ cõi thiêng liêng hoặc cõi tiên. Cửu tuyền: Chín suối, tức là âm phủ.
1686 Tìm đâu thì cũng biết tin rõ ràng.
1687 Sắm sanh lễ vật rước sang,
1688 Xin tìm cho thấy mặt nàng hỏi han.
1689 Đạo nhân phục trước tĩnh đàn, Đạo nhân: cũng như đạo sĩ, chỉ ông thấy pháp. Tĩnh đàn: Đàn thờ thần thánh của bọn thầy pháp.
1690 Xuất thần giây phút chưa tàn nén hương. Xuất thần: Linh hồn thầy pháp thoát ra ngoài thể xác để đi vào cõi thần linh.
1691 Trở về minh bạch nói tường:
1692 Mặt nàng chẳng thấy việc nàng đã tra.
1693 Người này nặng kiếp oan gia,
1694 Còn nhiều nợ lắm sao đà thoát cho!
1695 Mệnh cung đang mắc nạn to, Mệnh cung: Cung là bản mệnh, một trong 12 cung của số Tử vi. Sách số có câu: Cung mệnh mà có sao Bột chiếu vào thì người ấy mắc nạn. Câu này đại ý nói: Xem số Thuý Kiều thì đang mắc nạn to.
1696 Một năm nữa mới thăm dò được tin.
1697 Hai bên giáp mặt chiền chiền, Chiền chiền: Tiếng cổ, có nghĩa là rành rành, hoặc liền liền.
1698 Muốn nhìn mà chẳng dám nhìn lạ thay!
1699 Điều đâu nói lạ dường này,
1700 Sự nàng đã thế lời thầy dám tin!
1701 Chẳng qua đồng cốt quàng xiên, Đồng cốt: Ông đồng, bà cốt, những người làm nghề câu đồng, câu bóng.
1702 Người đâu mà lại thấy trên cõi trần?
1703 Tiếc hoa những ngậm ngùi xuân,
1704 Thân này dễ lại mấy lần gặp tiên.
1705 Nước trôi hoa rụng đã yên,
1706 Hay đâu địa ngục ở miền nhân gian.
1707 Khuyển ưng đã đắt mưu gian,
1708 Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền.
1709 Buồm cao lèo thẳng cánh suyền, Cảnh suyền: Cánh buồm đi nhanh.
1710 Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang.
1711 Dỡ đò lên trước sảnh đường,
1712 Khuyển ưng hai đứa nộp nàng dâng công.
1713 Vực nàng tạm xuống môn phòng,
1714 Hãy còn thiêm thiếp giấc nồng chưa phai.
1715 Hoàng lương chợt tỉnh hồn mai, Hoàng Lương: Kê vàng. Xưa Lư sinh đời Đường đi thi gặp ông già họ Lã cho mượn cái gối nằm ngủ. Chàng mơ thấy mình thi đỗ, làm quan vinh hoa phú quý hơn 20 năm. Lúc tỉnh giấc thì nồi kê của nhà hàng nấu chưa chín. Người sau bèn dùng hai chữ hoàng lương để chỉ giấc mơ. Hồn mai: Xưa có người gặp cô gái trong rừng, cùng uống rượu, sáng dậy thấy mình nằm dưới gốc cây mai. Đây chỉ có ý nói là giấc mơ màng.
1716 Cửa nhà đâu mất lâu đài nào đây?
1717 Bàng hoàng giở tỉnh giở say,
1718 Sảnh đường mảng tiếng đòi ngay lên hầu.
1719 A hoàn trên dưới giục mau, A hoàn: các đầy tớ gái trẻ tuổi.
1720 Hãi hùng nàng mới theo sau một người.
1721 Ngước trông tòa rộng dãy dài,
1722 Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên. Thiên quang trủng tể: Thiên quang là loại quan đứng đầu sáu lại quan do nhà Chu đặt ra. Trủng tể tức là chức tể tướng.
1723 Ban ngày sáp thắp hai bên,
1724 Giữa giường thất bảo ngồi trên một bà. Thất bảo: Bảy sản vật quý như vàng, bực, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, trân châu. ở đây chỉ cái giường có khảm các vật quý.
1725 Gạn gùng ngọn hỏi ngành tra,
1726 Sự mình nàng phải cứ mà gửi thưa.
1727 Bất tình nổi trận mây mưa,
1728 Mắng rằng: Những giống bơ thờ quên thân!
1729 Con này chẳng phải thiện nhân,
1730 Chẳng phường trốn chúa thì quân lộn chồng.
1731 Ra tuồng mèo mả gà đồng, Mèo mả gà đồng: Mèo hoang sống ở mồ mả;gà hoang sống ở ngoài đồng, người ta thường dùng để ví với hạng người lông bông, giang hồ.
1732 Ra tuồng lúng túng chẳng xong bề nào.
1733 Đã đem mình bán cửa tao,
1734 Lại còn khủng khỉnh làm cao thế này.
1735 Nào là gia pháp nọ bay! Gia pháp: Phép tắc trong nhà để trừng phạt gia nhân và tôi tớ.
1736 Hãy cho ba chục biết tay một lần.
1737 A hoàn trên dưới dạ ran,
1738 Dẫu rằng trăm miệng không phân lẽ nào.
1739 Trúc côn ra sức đập vào, Trúc côn: Gậy tre.
1740 Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh.
1741 Xót thay đào lý một cành, Đào lý: Cây đào, cây lý, thường dùng để chỉ phụ nữ.
1742 Một phen mưa gió tan tành một phen.
1743 Hoa nô truyền dạy đổi tên,
1744 Buồng the dạy ép vào phiên thị tì. Phiên thị tỳ: Thị tỳ ở nhà quyền quý rất nhiều, chia ra từng ban và từng phiên mà hầu hạ, nên gọi là phiên thị tỳ.
1745 Ra vào theo lũ thanh y, Thanh ly: áo xanh. Đầy tớ gái các nhà giàu sang đời xưa đều mặc áo xanh, nên gọi là thanh y.
1746 Dãi dầu tóc rối da chì quản bao.
1747 Quản gia có một mụ nào, Quản gia: Trong gia đình quan lại phong kiến đời xưa thường dùng những người đàn bà đứng tuổi trông coi việc nhà và cai quản số hầu gái, gọi là quản gia.
1748 Thấy người thấy nết ra vào mà thương.
1749 Khi chè chén khi thuốc thang,
1750 Đem lời phương tiện mở đường hiếu sinh. Phương tiện: ở đây có nghĩa là đối đãi, xử trí mọi việc. Hiếu sinh: Quí trọng sinh mệnh, ý nói tránh cho người ta con đường khổ sở chết chóc.
1751 Dạy rằng: May rủi đã đành,
1752 Liểu bồ mình giữ lấy mình cho hay. Liễu và bồ là hai giống cây mềm yếu thường được dùng để chỉ phụ nữ.
1753 Cũng là oan nghiệp chi đây, Oan nghiệp: Tiền oan, nghiệp chướng, có ý nói có oan thù và tội lỗi từ thời trước để lại.
1754 Sa cơ mới đến thế này chẳng dưng.
1755 Ở đây tai vách mạch rừng, Tai vách mạch rừng: Do câu thành ngữ: Rừng có mạch vách có tai.
1756 Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi.
1757 Kẻo khi sấm sét bất kỳ,
1758 Con ong cái kiến kêu gì được oan?
1759 Nàng càng giọt ngọc như chan,
1760 Nỗi lòng luống những bàng hoàng niềm tây:
1761 Phong trần kiếp chịu đã đầy, Phong trần: Nghĩa đen là gió bụi, thường được dùng để chỉ sự khổ sở mà người đời phải chịu.
1762 Lầm than lại có thứ này bằng hai.
1763 Phận sao bạc chẳng vừa thôi,
1764 Khăng khăng buộc mãi lấy người hồng nhan.
1765 Đã đành túc trái tiền oan, Túc trái tiền oan: Nợ nần, oán thù từ kiếp trước để lại.
1766 Cũng liều ngọc nát hoa tàn mà chi.
1767 Những là nương náu qua thì,
1768 Tiểu thư phải buổi mới về ninh gia.
1769 Mẹ con trò chuyện lân la,
1770 Phu nhân mới gọi nàng ra dạy lời:
1771 Tiểu thư dưới trướng thiếu người,
1772 Cho về bên ấy theo đòi lầu trang.
1773 Lãnh lời nàng mới theo sang,
1774 Biết đâu địa ngục thiên đàng là đâu. Địa ngục, thiên đường: Theo giáo lý đạo Phật thì những người độc ác sau khi chết phải xuống địa ngục để chịu tội, còn hồn những người lương thiện thì được lên thiên đường. ở đây ý nói nơi khổ ải và nơi sung sướng.
1775 Sớm khuya khăn mắt lược đầu,
1776 Phận con hầu giữ con hầu dám sai.
1777 Phải đêm êm ả chiều trời,
1778 Trúc tơ hỏi đến nghề chơi mọi ngày. Trúc tơ: Do chữ ty trúc: ty là tơ để làm dây đàn, trúc là tre để làm ống sáo. Hai chữ này thường được dùng để chỉ các thứ âm nhạc nói chung.
1779 Lĩnh lời nàng mới lựa dây,
1780 Nỉ non thánh thót dễ say lòng người.
1781 Tiểu thư xem cũng thương tài,
1782 Khuôn uy dường cũng bớt vài bốn phân.
1783 Cửa người đày đọa chút thân,
1784 Sớm ngơ ngẩn bóng đêm năn nỉ lòng.
1785 Lâm Tri chút nghĩa đèo bồng,
1786 Nước bèo để chữ tương phùng kiếp sau. Tương phùng: Gặp nhau. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ rằng tình nghĩa giữa mình với Thúc Sinh muốn nối lại thì hoạ chăng chỉ ở kiếp khác.
1787 Bốn phương mây trắng một màu, Thuý Kiều trông ra bốn bể thì thấy đâu cũng man mác một màu mây trắng mà không thấy quê nhà.
1788 Trông vời cố quốc biết đâu là nhà. Cố quốc: Nguyên nghĩa là nước cũ, sau cũng dùng như chữ cố hương (quê cũ).
1789 Lần lần tháng trọn ngày qua,
1790 Nỗi gần nào biết đường xa thế này.
1791 Lâm Tri từ thuở uyên bay, Uyên: do chữ uyên ương, giống chim ở với nhau từng đôi, nên người ta thường dùng để chỉ vợ chồng. Uyên bay: ý nói Thuý Kiều không còn nữa (con chim uyên đã bay mất).
1792 Buồng không thương kẻ tháng ngày chiếc thân.
1793 Mày ai trăng mới in ngần, Trăng mới: Trăng đầu tháng. Câu nói đại ý nói: Thúc sinh trông thấy mặt trăng lưỡi liềm đầu tháng giống như lông mày người gái đẹp mà tưởng nhớ đến Kiều.
1794 Phần thừa hương cũ bội phần xót xa. Câu này đại ý nói: Thuý Kiều không còn nữa. Thúc sinh trông thấy phấn hương của nàng còn sót lại mà thương tâm.
1795 Sen tàn cúc lại nở hoa,
1796 Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân.
1797 Tìm đâu cho thấy cố nhân? Cố nhận: Người quen biết cũ. ở đây chỉ Thuý Kiều.
1798 Lấy câu vận mệnh khuây dần nhớ thương.
1799 Chạnh niềm nhớ cảnh gia hương, Gia hương: Nhà và làng, tức quê nhà. ở đây chỉ quê hương của Thúc sinh ở huyện Vô Tích.
1800 Nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
1801 Tiểu thư đón cửa giãi giề,
1802 Hàn huyên vừa cạn mọi bề gần xa.
1803 Nhà hương cao cuốn bức là, Nhà hương: Do chữ Hương khuê.
1804 Buồng trong truyền gọi nàng ra lạy mừng.
1805 Bước ra một bước một dừng,
1806 Trông xa nàng đã tỏ chừng nẻo xa:
1807 Phải chăng nắng quáng đèn lòa,
1808 Rõ ràng ngồi đó chẳng là Thúc Sinh?
1809 Bây giờ tình mới rõ tình,
1810 Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai.
1811 Chước đâu có chước lạ đời?
1812 Người đâu mà lại có người tinh ma?
1813 Rõ ràng thật lứa đôi ta,
1814 Làm ra con ở chúa nhà đôi nơi.
1815 Bề ngoài thơn thớt nói cười,
1816 Mà trong nham hiểm giết người không dao. Thành ngữ: Giết người không dao. ở đây chỉ mưu mẹo nham hiểm.
1817 Bây giờ đất thấp trời cao,
1818 Ăn làm sao nói làm sao bây giờ?
1819 Càng trông mặt càng ngẩn ngơ,
1820 Ruột tằm đòi đoạn như tơ rối bời.
1821 Sợ uy dám chẳng vâng lời,
1822 Cúi đầu nép xuống sân mai một chiều.
1823 Sinh đà phách lạc hồn siêu: Phách lạc hồn xiêu: Do chữ hồn phi phách tán, ý nói sợ hãi một cách ghê gớm.
1824 Thương ơi chẳng phải nàng Kiều ở đây?
1825 Nhân làm sao đến thế này?
1826 Thôi thôi ta đã mắc tay ai rồi!
1827 Sợ quen dám hở ra lời,
1828 Không ngăn giọt ngọc sụt sùi nhỏ sa.
1829 Tiểu thư trông mặt hỏi tra:
1830 Mới về có việc chi mà động dong? Động dong: Biến đổi sắc mặt, ý nói động lòng.
1831 Sinh rằng hiếu phục vừa xong, Hiếu phục: Tang trở cha mẹ. ở đây chỉ thúc sinh vừa hết tang mẹ.
1832 Suy lòng trắc dĩ đau lòng chung thiên. Trắc dĩ: Kinh thi có câu Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mâu hề (lên núi Dĩ trông ngóng mẹ). Người sau bèn dùng hai chữ Trắc Dĩ để nói thương nhớ mẹ. Chung thiên: Suốt đời, ý nói không bao giờ quên.
1833 Khen rằng: Hiếu tử đã nên! Hiếu tử: Người con có hiếu với cha mẹ.
1834 Tẩy trần mượn chén giải phiền đêm thu. Giải phiền: Làm cho khuây khoả sự phiền não.
1835 Vợ chồng chén tạc chén thù, Thù: Chén rượu do chủ nhà rót mời khách. Tạc: Chén rượu do khách rót cho người chủ để đáp lại. ở đây nói vợ chồng Thúc sinh uống rượu và mời mọc nhau.
1836 Bắt nàng đứng chực trì hồ hai nơi. Trì hồ: Bưng bầu rượu. ý nói bắt Kiều đứng hầu một bên để rót rượu cho hai vợ chồng Thúc sinh uống.
1837 Bắt khoan bắt nhặt đến lời,
1838 Bắt quì tận mặt bắt mời tận tay.
1839 Sinh càng như dại như ngây,
1840 Giọt dài giọt ngắn chén đầy chén vơi.
1841 Ngảnh đi chợt nói chợt cười,
1842 Cáo say chàng đã giạm bài lảng ra.
1843 Tiểu thư vội thét: Con Hoa!
1844 Khuyên chàng chẳng cạn thì ta có đòn.
1845 Sinh càng nát ruột tan hồn,
1846 Chén mời phải ngậm bồ hòn ráo ngay. Bồ hòn để ám chỉ người có việc buồn khổ mà không nói ra được. ở đây ý nói: chén rượu Kiều đưa mời chàng thấy đắng như bồ hòn, nhưng vì sợ Kiều bị liên luỵ phải uống hết ngay.
1847 Tiểu thư cười nói tỉnh say,
1848 Chưa xong cuộc rượu lại bày trò chơi.
1849 Rằng: Hoa nô đủ mọi tài,
1850 Bản đàn thử dạo một bài chàng nghe.
1851 Nàng đà tán hoán tê mê,
1852 Vâng lời ra trước bình the vặn đàn.
1853 Bốn dây như khóc như than,
1854 Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.
1855 Cùng chung một tiếng tơ đồng,
1856 Người ngoài cười nụ người trong khóc thầm. Người ngoài là người ngoài cuộc, thi Hoạn thư: người trong là người trong cuộc chỉ Thúc sinh và Kiều.
1857 Giọt châu lã chã khôn cầm,
1858 Cúi đầu chàng những gạt thầm giọt Tương.
1859 Tiểu thư lại thét lấy nàng:
1860 Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi?
1861 Sao chẳng biết ý tứ gì?
1862 Cho chàng buồn bã tội thì tại ngươi.
1863 Sinh càng thảm thiết bồi hồi,
1864 Vội vàng gượng nói gượng cười cho qua.
1865 Giọt rồng canh đã điểm ba, Giọt rồng: có nghĩa là thời giờ, thời khắc.
1866 Tiểu thư nhìn mặt dường đà can tâm. Cam tậm: Thoả lòng, hả dạ.
1867 Lòng riêng khấp khởi mừng thầm:
1868 Vui này đã bõ đau ngầm xưa nay.
1869 Sinh thì gan héo ruột đầy,
1870 Nỗi lòng càng nghĩ càng cay đắng lòng.
1871 Người vào chung gối loan phòng, Loan phòng: Phòng nằm của đôi vợ chồng;
1872 Nàng ra tựa bóng đèn chong canh dài:
1873 Bây giờ mới rõ tăm hơi,
1874 Máu ghen đâu có lạ đời nhà ghen!
1875 Chước đâu rẽ thúy chia uyên, Thuý: Chim chả. Uyên: Chim uyên ương. ở đây chỉ việc Hoạn Thư dùng mưu chia rẽ đôi lứa Thúc sinh và Thuý Kiều.
1876 Ai ra đường nấy ai nhìn được ai.
1877 Bây giờ một vực một trời,
1878 Hết điều khinh trọng hết lời thị phi.
1879 Nhẹ như bấc nặng như chì,
1880 Gỡ cho ra nữa còn gì là duyên?
1881 Lỡ làng chút phận thuyền quyên,
1882 Bể sâu sóng cả có tuyền được vay?
1883 Một mình âm ỉ đêm chày,
1884 Đĩa dầu vơi nước mắt đầy năm canh.
1885 Sớm trưa hầu hạ đài doanh, Đài dinh: Đài các, dinh thự, chỉ chỗ ở của bọn quyền quý. ở đây mượn để chỉ nhà ở của Thúc sinh và Hoạn thư.
1886 Tiểu thư chạm mặt đè tình hỏi tra.
1887 Lựa lời nàng mới thưa qua:
1888 Phải khi mình lại xót xa nỗi mình.
1889 Tiểu thư hỏi lại Thúc Sinh:
1890 Cậy chàng tra lấy thực tình cho nao!
1891 Sinh đà rát ruột như bào,
1892 Nói ra chẳng tiện trông vào chẳng đang!
1893 Những e lại lụy đến nàng,
1894 Đánh liều mới sẽ lựa đường hỏi tra.
1895 Cúi đầu quỳ trước sân hoa,
1896 Thân cung nàng mới dâng qua một tờ. Thân cung: Cung khai, khai trình.
1897 Diện tiền trình với Tiểu thư, Diện tiền: Trước mặt.
1898 Thoạt xem dường có ngẩn ngơ chút tình.
1899 Liền tay trao lại Thúc Sinh,
1900 Rằng: Tài nên trọng mà tình nên thương!
1901 Ví chăng có số giàu sang,
1902 Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
1903 Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
1904 Hữu tài thương nỗi vô duyên lạ đời!
1905 Sinh rằng: Thật có như lời,
1906 Hồng nhan bạc mệnh một người nào vay!
1907 Nghìn xưa âu cũng thế này,
1908 Từ bi âu liệu bớt tay mới vừa.
1909 Tiểu thư rằng: ý trong tờ,
1910 Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa Không. Cửa không: Do chữ không môn. Vì đạo Phật cho mọi vật trên thế gian đều là "không" nên người ta gọi đạo Phật là "Không môn".
1911 Thôi thì thôi cũng chiều lòng,
1912 Cũng cho khỏi lụy trong vòng bước ra.
1913 Sẵn Quan âm các vườn ta, Quan âm các: Cái chùa thờ Phật Quan thế âm Bồ tát. Đây là chùa riêng của nhà Hoạn Thư.
1914 Có cây trăm thước, có hoa bốn mùa.
1915 Có cổ thụ, có sơn hồ, Cổ thụ: Cây lâu năm. Sơn hồ: Núi giả và hồ đào ra để làm cảnh.
1916 Cho nàng ra đó giữ chùa chép kinh.
1917 Tàng tàng trời mới bình minh, Tàng tàng: Tang tảng sáng.
1918 Hương hoa, ngũ cúng, sắm sanh lễ thường. Ngũ cúng: Năm vật cúng Phật, tức hương, hoa, đăng, trà, quả.
1919 Đưa nàng đến trước Phật đường,
1920 Tam qui, ngũ giới, cho nàng xuất gia. Tam quy: Ba lễ "qui y" tức quy y phật, quy y pháp, quy y tăng, nghĩa là đem cả tâm và thân mà theo đạo Phật. Ngũ giới: Năm điều răn, tức là răn sát sinh, răn ăn rộm, răn tà dâm, răn nói càn, răn uống rượu. Xuất gia: Ra khỏi nhà tức đi tu.
1921 Áo xanh đổi lấy cà sa, Áo xanh: Thanh y, áo các hầu gái mặc. Cà sa: áo nhà sư mặc.
1922 Pháp danh lại đổi tên ra Trạc Tuyền. Pháp danh: Tên đặt theo tập tục tôn giáo. Trạc Tuyền là pháp danh do Hoạn thư đặt cho Kiều.
1923 Sớm khuya sắm đủ dầu đèn,
1924 Xuân, Thu, cắt sẵn hai tên hương trà. Xuân, thu: Tên hai người đầy tớ gái do Hoạn thư sai đến Quan âm các ở với Kiều để giúp việc hương đèn.
1925 Nàng từ lánh gót vườn hoa,
1926 Dường gần rừng tía, dường xa bụi hồng. Rừng tía: Do chữ tư trúc lâm, chỗ ở của Phật Quan âm Bồ tát. Bụi hồng: Do chữ hồng trần, tức cõi trần tục, cõi đời.
1927 Nhân duyên đâu lại còn mong, Nhân duyên: Duyên vợ chồng. ở đây chỉ duyên phận giữa Kiều và Thúc sinh.
1928 Khỏi điều thẹn phấn, tủi hồng thì thôi.
1929 Phật tiền thảm lấp sầu vùi,
1930 Ngày pho thủ tự, đêm nồi tâm hương. Thủ tự: Chữ viết tay. Tâm hương: Hương lòng. Nén hương dân lên do tấm lòng thành kính.
1931 Cho hay giọt nước cành dương, Giọt nước cành dương: Do chữ dương chi thuỷ. Theo sách Phật thì Phật Quan âm có cành dương liễu và bình nước cam lộ, khi muốn cứu ai thì lấy cành dương liễu dúng nước trong bình mà rảy vào người ấy. ở đây giọt nước cành dương dùng để chỉ phép màu nhiệm của Phật.
1932 Lửa lòng tưới tắt mọi đường trần duyên. Lửa lòng: do chữ tâm hoả, chỉ mọi thứ dục vòng do lòng người sinh ra. Trần duyên: Duyên nợ ở cõi trần.
1933 Nâu sồng từ trở màu thiền,
1934 Sân thu trăng đã vài phen đứng đầu,
1935 Cửa thiền, then nhặt, lưới mau,
1936 Nói lời trước mặt, rời châu vắng người.
1937 Gác kinh viện sách đôi nơi, Gác kinh: Cái gác viết kinh, chỉ chỗ ở của Kiều. Viện sách: Tức thư viện, phòng đọc sách, chỉ chỗ ở của Thúc sinh.
1938 Trong gang tấc lại gấp mười quan san.
1939 Những là ngậm thở nuốt than,
1940 Tiểu thư phải buổi vấn an về nhà. Vấn an: Hỏi thăm sức khoẻ.
1941 Thừa cơ, sinh mới lẻn ra,
1942 Xăm xăm đến mé vườn hoa với nàng.
1943 Sụt sùi giở nỗi đoạn tràng,
1944 Giọt châu tầm tã đẫm tràng áo xanh: Áo xanh: Do chữ thanh sam, chỉ thứ áo xanh mà các nhà nho sĩ xưa thường mặc.
1945 Đã cam chịu bạc với tình,
1946 Chúa xuân để tội một mình cho hoa!
1947 Thấp cơ thua trí đàn bà,
1948 Trông vào đau ruột nói ra ngại lời.
1949 Vì ta cho lụy đến người,
1950 Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh! Cát lầm ngọc trắng: ý nói Kiều như "ngọc trắng" mà bị cát vùi dập.
1951 Quản chi lên thác xuống ghềnh,
1952 Cũng toan sống thác với tình cho xong.
1953 Tông đường chút chửa cam lòng, Tông đường: Nhà tổ tông. ở đây dùng với nghĩa: "nối dõi tông đường". ý nói Thúc sinh nghĩ mình chưa có con trai để nối dõi tông đường.
1954 Nghiến răng bẻ một chữ đồng làm hai.
1955 Thẹn mình đá nát vàng phai,
1956 Trăm thân dễ chuộc một lời được sao?
1957 Nàng rằng: Chiếc bách sóng đào, Dông tố: Cơn mưa to gió lớn. ở đây chỉ sự giận giữ ghê gớm của Hoạn thư.
1958 Nổi chìm cũng mặc lúc nào rủi may!
1959 Chút thân quằn quại vũng lầy,
1960 Sống thừa còn tưởng đến rày nữa sao?
1961 Cũng liều một giọt mưa rào,
1962 Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay!
1963 Xót vì cầm đã bén dây,
1964 Chẳng trăm năm cũng một ngày duyên ta.
1965 Liệu bài mở cửa cho ra,
1966 Ấy là tình nặng Ấy là ân sâu!
1967 Sinh rằng: Riêng tưởng bấy lâu,
1968 Lòng người nham hiểm biết đâu mà lường.
1969 Nữa khi giông tố phũ phàng,
1970 Thiệt riêng đó cũng lại càng cực đây.
1971 Liệu mà xa chạy cao bay,
1972 Ái ân ta có ngần này mà thôi!
1973 Bâu giờ kẻ ngược người xuôi,
1974 Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1975 Dẫu rằng sông cạn đá mòn,
1976 Con tằm đến thác cũng còn vướng tơ!
1977 Cùng nhau kể lể sau xưa,
1978 Nói rồi lại nói, lời chưa hết lời.
1979 Mặt trông tay chẳng nỡ rời,
1980 Hoa tì đã động tiếng người nẻo xa.
1981 Nhận ngừng, nuốt tủi, lảng ra,
1982 Tiểu thư đâu đã rẽ hoa bước vào.
1983 Cười cười, nói nói ngọt ngào,
1984 Hỏi: Chàng mới ở chốn nào lại chơi?
1985 Dối quanh Sinh mới liệu lời:
1986 Tìm hoa quá bước, xem người viết kinh.
1987 Khen rằng: Bút pháp đã tinh, Bút pháp: Phép viết chữ.
1988 So vào với thiếp Lan đình nào thua! Thiếp Lan - đình: Do chữ Lan-đình thiếp là bản bút tích rất tốt của nhà văn Vương Hy Chi, đời Tần.
1989 Tiếc thay lưu lạc giang hồ,
1990 Nghìn vàng, thật cũng nên mua lấy tài!
1991 Thiền trà cạn chén hồng mai, Thiền trà: Nước trà của nhà chùa. Hông mai: Gỗ cây mai già dùng để nấu làm nước uống, sắc nước đỏ hồng, nên gọi là hồng mai.
1992 Thong dong nối gót thư trai cùng về. Thư trai: Nhà đọc sách, cũng như thư viện.
1993 Nàng càng e lệ ủ ê,
1994 Rỉ tai, hỏi lại hoa tì trước sau.
1995 Hoa rằng: Bà đã đến lâu,
1996 Rón chân đứng nép độ đâu nữa giờ.
1997 Rành rành kẽ tóc chân tơ,
1998 Mấy lời nghe hết đã dư tỏ tường.
1999 Bao nhiêu đoạn khổ, tình thương,
2000 Nỗi ông vật vã, nỗi nàng thở than.
2001 Ngăn tôi đứng lại một bên,
2002 Chán tai rồi mới bước lên trên lầu.
2003 Nghe thôi kinh hãi xiết đâu:
2004 Đàn bà thế ấy thấy âu một người!
2005 Ấy mới gan Ấy mới tài,
2006 Nghĩ càng thêm nỗi sởn gai rụng rời!
2007 Người đâu sâu sắc nước đời,
2008 Mà chàng Thúc phải ra người bó tay! Bó tay: Chữ hán là thúc thủ. Đặt hai chữ "bó tay" sau chữ "Thúc" là một cách chơi chữ của tác giả.
2009 Thực tang bắt được dường này,
2010 Máu ghen ai cũng chau mày nghiến răng.
2011 Thế mà im chẳng đãi đằng, Đãi đằng: ở đây lại có nghĩa là nói năng, làm ầm ĩ lên.
2012 Chào mời vui vẻ nói năng dịu dàng!
2013 Giận dầu ra dạ thế thường,
2014 Cười dầu mới thực khôn lường hiểm sâu! Cổ nhân có câu: Nộ giả thường tình, tiếu giả bất khả t rắc, nghĩa là: Giận dữ là thói thường, cười thì không thể lường được. Câu này dùng ý ấy.
2015 Thân ta ta phải lo âu,
2016 Miệng hùm nọc rắn ở đâu chốn này!
2017 Ví chăng chắp cánh cao bay,
2018 Rào cây lâu cũng có ngày bẻ hoa! Câu này ý nói: Bị giam giữ ở đây lâu, thế nào cũng có ngày mình bị hành hạ điêu đứng hơn, hoặc bị trừ khử.
2019 Phận bèo bao quản nước sa,
2020 Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh. Câu này ý nói: Thuý Kiều nghĩ thân phận của mình như cánh bèo trên mặt nước, ở đâu thì cũng là lênh đênh cả, không còn quản gì.
2021 Chỉn e quê khách một mình,
2022 Tay không chưa dễ tìm vành ấm no!
2023 Nghĩ đi nghĩ lại quanh co,
2024 Phật tiền sẵn có mọi đồ kim ngân. Kim ngân: Vàng bạc, chỉ các đồ thờ như chuông, khánh đúc bằng vàng bạc.
2025 Bên mình giắt để hộ thân,
2026 Lần nghe canh đã một phần trống ba.
2027 Cất mình qua ngọn tường hoa,
2028 Lần đường theo bóng trăng tà về tây.
2029 Mịt mù dặm cát đồi cây,
2030 Tiếng gà điếm nguyệt dấu giày cầu sương.
2031 Canh khuya thân gái dặm trường,
2032 Phần e đường xá, phần thương dãi dầu!
2033 Trời đông vừa rạng ngàn dâu,
2034 Bơ vơ nào đã biết đâu là nhà!
2035 Chùa đâu trông thấy nẻo xa,
2036 Rành rành Chiêu ẩn am ba chữ bài. Chiêu ấn: Tên ngôi chùa, nghĩa là chiêu nạp những người ẩn dật.
2037 Xăm xăm gõ mái cửa ngoài,
2038 Trụ trì nghe tiếng, rước mời vào trong. Trụ trì: Cư trú và chủ trì mọi công việc trong một ngôi chùa.
2039 Thấy màu ăn mặc nâu sồng,
2040 Giác duyên sư trưởng lành lòng liền thương.
2041 Gạn gùng ngành ngọn cho tường,
2042 Lạ lùng nàng hãy tìm đường nói quanh:
2043 Tiểu thiền quê ở Bắc Kinh, Tiểu thiền: Cũng như tiểu tăng, là người đi tu nhỏ mọn (Lời Kiều tự khiêm).
2044 Qui sư, qui Phật, tu hành bấy lâu. Qui sư, qui phật: Theo thầy, theo Phật, cũng như nói "qui tăng, qui phật".
2045 Bản sư rồi cũng đến sau, Bản sư: Vị sư thầy học mình.
2046 Dạy đưa pháp bảo sang hầu sư huynh. Pháp bảo: Chỉ các đồ thờ cúng quý giá. Sư huynh: Vị sư đàn anh, lời xưng hô giữa các vị sư với nhau.
2047 Rày vâng diện hiến rành rành, Diện kiến: Đem dâng ngày trước mặt.
2048 Chuông vàng khánh bạc bên mình giở ra.
2049 Xem qua sư mới dạy qua:
2050 Phải nơi Hằng Thủy là ta hậu tình. Hằng Thuỷ: Tên hiệu một vị sư nữ khác mà Kiều mạo xưng là thầy học mình. Hậu tình: Tình nghĩa đối xử hậu hĩ, thân mật.
2051 Chỉ e đường sá một mình,
2052 Ở đây chờ đợi sư huynh ít ngày.
2053 Gửi thân được chốn am mây, Am mây: Do chữ Vân phòng, chỗ ở nhà sư ở.
2054 Muối dưa đắp đổi tháng ngày thong dong.
2055 Kệ kinh câu cũ thuộc lòng,
2056 Hương đèn việc cũ, trai phòng quen tay.
2057 Sớm khuya lá bối phướn mây,
2058 Ngọn đèn khêu nguyệt, tiếng chày nện sương.
2059 Thấy nàng thông tuệ khác thường, Thông tuệ: Thông minh, sáng suốt;
2060 Sư càng nể mặt, nàng càng vững chân.
2061 Cửa thuyền vừa tiết cuối xuân,
2062 Bóng hoa đầy đất, vẻ ngân ngang trời. Vẻ ngân: ánh bạc, ánh trăng sáng như bạc.
2063 Gió quang mây tạnh thảnh thơi,
2064 Có người đàn việt lên chơi cửa Già. Đàn việt: Người đứng ra bố thí, thường thường để chỉ người có công với nhà chùa, hay người đi vãn cảnh chùa. Cửu già: Tiếng Phạn gọi chùa là già lam.
2065 Giở đồ chuông khánh xem qua,
2066 Khen rằng: Khéo giống của nhà Hoạn nương!
2067 Giác Duyên thực ý lo lường,
2068 Đêm thanh mới hỏi lại nàng trước sau.
2069 Nghĩ rằng khôn nỗi giấu mầu,
2070 Sự mình nàng mới gót đầu bày ngay:
2071 Bây giờ sự đã dường này,
2072 Phận hèn dù rủi, dù may, tại người.
2073 Giác Duyên nghe nói rụng rời,
2074 Nửa thương, nửa sợ, bồi hồi chẳng xong.
2075 Rỉ tai nàng mới giãi lòng:
2076 Ở đây cửa Phật là không hẹp gì;
2077 E chăng những sự bất kỳ,
2078 Để nàng cho đến thế thì cũng thương!
2079 Lánh xa, trước liệu tìm đường,
2080 Ngồi chờ nước đến, nên đường còn quê!
2081 Có nhà họ Bạc bên kia,
2082 Am mây quen lối đi về dầu hương.
2083 Nhắn sang, dặn hết mọi đường,
2084 Dọn nhà hãy tạm cho nàng trú chân.
2085 Những mừng được chốn an thân,
2086 Vội vàng nào kịp tính gần tính xa.
2087 Nào ngờ cũng tổ bợm già,
2088 Bạc bà học với Tú bà đồng môn! Đồng môn: cùng học một thầy, một trường, ý nói Bạc hà cũng một phường chủ lầu xanh như Tú bà.
2089 Thấy nàng mặt phấn tươi son,
2090 Mừng thầm được mối bán buôn có lời.
2091 Hư không đặt để nên lời,
2092 Nàng đà nhớn nhác rụng rời lắm phen.
2093 Mụ càng xua đuổi cho liền,
2094 Lấy lời hung hiểm ép duyên Châu Trần.
2095 Rằng: Nàng muôn dặm một thân,
2096 Lại mang lấy tiếng dữ gần, lành xa. Tục ngữ: Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa. Ở đây mượn ý ấy để nói Thuý Kiều đã mang tiếng trốn chúa và ăn cắp, thế nào cũng bị người ta dị nghị.
2097 Khéo oan gia, của phá gia, Oan gia: Bạc bà địa đặt ra mà nói Kiều là một oan gia kiếp trước vào nhà mình để chực gây tai hoạ cho mình. Phá gia: Phá nhà.
2098 Còn ai dám chứa vào nhà nữa đây!
2099 Kíp toan kiếm chốn xe dây, Xe dây: Cũng như xe tơ, nghĩa là lấy chồng.
2100 Không dưng chưa dễ mà bay đường trời!
2101 Nơi gần thì chẳng tiện nơi,
2102 Nơi xa thì chẳng có người nào xa.
2103 Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà,
2104 Cùng trong thân thích ruột rà, chẳng ai.
2105 Cửa hàng buôn bán châu Thai,
2106 Thực thà có một, đơn sai chẳng hề.
2107 Thế nào nàng cũng phải nghe,
2108 Thành thân rồi sẽ liệu về châu Thai. Thành thân: Làm lễ hợp hôn, thành vợ chồng. Châu thai: Chỗ Bạc Hạnh buôn bán, thuộc tỉnh Chiết Giang (Trung Quốc).
2109 Bấy giờ ai lại biết ai,
2110 Dầu lòng bể rộng sông dài thênh thênh.
2111 Nàng dù quyết chẳng thuận tình,
2112 Trái lời nẻo trước lụy mình đến sau.
2113 Nàng càng mặt ủ mày chau,
2114 Càng nghe mụ nói, càng đau như dần.
2115 Nghĩ mình túng đất, sẩy chân,
2116 Thế cùng nàng mới xa gần thở than:
2117 Thiếp như con én lạc đàn,
2118 Phải cung rày đã sợ làn cây cong! Cổ ngữ: Thương cung chi điểu, kiến khúc mộc nhi cao phi, nghĩa là con chim đã bị thương vì cung thì thấy cái cong cũng sợ mà bay cao.
2119 Cùng đường dù tính chữ tòng,
2120 Biết người, biết mặt, biết lòng làm sao?
2121 Nữa khi muôn một thế nào,
2122 Bán hùm, buôn sói, chắc vào lưng đâu?
2123 Dù ai lòng có sở cầu, Sở cầu: Cầu đến, hỏi đến, ý nói muốn cưới làm vợ.
2124 Tâm mình xin quyết với nhau một lời. Tân minh: Lấy lòng thực mà thề với nhau.
2125 Chứng minh có đất, có Trời,
2126 Bấy giờ vượt bể ra khơi quản gì?
2127 Được lời mụ mới ra đi,
2128 Mách tin họ Bạc tức thì sắm sanh.
2129 Một nhà dọn dẹp linh đình,
2130 Quét sân, đặt trác, rửa bình, thắp nhang.
2131 Bạc sinh quì xuống vội vàng,
2132 Quá lời nguyện hết Thành hoàng, Thổ công. Thành hoàng thổ công: ý nói: Bạc Hạnh thề rằng: Nếu mình không tốt với Kiều thì xin thành hoàng, thổ công chứng giám.
2133 Trước sân lòng đã giãi lòng,
2134 Trong màn làm lễ tơ hồng kết duyên. Lễ tơ hồng: Tức là Nguyệt lão, vị thần xe dây cho người nên vọ nên chồng.
2135 Thành thân mới rước xuống thuyền,
2136 Thuận buồm một lá, xuôi miền châu Thai.
2137 Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi,
2138 Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày.
2139 Cũng nhà hành viện xưa nay, Hành viện: Tên gọi khác của nhà chứa.
2140 Cũng phường bán thịt, cũng tay buôn người.
2141 Xem người định giá vừa rồi,
2142 Mối hàng một, đã ra mười, thì buông.
2143 Mượn người thuê kiệu rước nường,
2144 Bạc đem mặt bạc, kiếm đường cho xa!
2145 Kiệu hoa đặt trước thềm hoa,
2146 Bên trong thấy một mụ ra vội vàng.
2147 Đưa nàng vào lạy gia đường,
2148 Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh!
2149 Thoắt trông nàng đã biết tình,
2150 Chim lồng khốn lẽ cất mình bay cao.
2151 Chém cha cái số hoa đào, Theo nhà thuật số đờ xưa thì đào hoa làm một hung tịch, chiếu vào cung mệnh con trai thì bệnh tật, chiếu vào cung mệnh con gái thì phải làm đĩ.
2152 Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi!
2153 Nghĩ đời mà chán cho đời,
2154 Tài tình chi lắm, cho trời đất ghen!
2155 Tiếc thay nước đã đánh phèn,
2156 Mà cho bùn lại vẩn lên mấy lần!
2157 Hồng quân với khách hồng quần, Hồng quân: Chỉ con tạo. Hồng quần: Cái quần đỏ, được dùng để chỉ người con gái.
2158 Đã xoay đến thế, còn vần chửa tha.
2159 Lỡ từ lạc bước bước ra,
2160 Cái thân liệu những từ nhà liệu đi.
2161 Đầu xanh đã tội tình chi?
2162 Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi.
2163 Biết thân chạy chẳng khỏi trời,
2164 Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh. Mặt phấn: Mặt trát phấn, ý thân phận người con gái.
2165 Lần thu gió mát trăng thanh,
2166 Bỗng đâu có khách biên đình sang chơi, Biên đình: Nơi biên ải xa xôi.
2167 Râu hùm, hàm én, mày ngài, Râu hùm, hàm én, mày ngài: Tướng mại của người anh hùng: râu dữ như râu hùm, hàm mở rộng như chim én, mày cong và to như con tằm.
2168 Vai năm tấc rộng, thân mười thước cao.
2169 Đường đường một đấng anh hào, Anh hào: Anh hùng hào kiệt.
2170 Côn quyền hơn sức lược thao gồm tài. Côn quyền: Món võ đánh bằng gậy. Quyền: Món võ đánh bằng tay. Lược thao: Mưu lược về các dùng binh, do chữ Lục thao, Tam lược là hai pho binh thư đời xưa mà ra.
2171 Đội trời đạp đất ở đời,
2172 Họ Từ tên Hải, vốn người Việt đông. Việt Đông: Chỉ tỉnh Quảng Đông (Trung Quốc) ở về phía đông sông Việt, nên gọi là Việt Đông.
2173 Giang hồ quen thú vẫy vùng,
2174 Gươm đàn nửa gánh, non sông một chèo.
2175 Qua chơi nghe tiếng nàng Kiều,
2176 Tấm lòng nhi nữ cùng xiêu anh hùng. Tấm lòng nhi nữ: ý nói: Người đẹp. Lầu hồng: do chữ hồng lâu.
2177 Thiếp danh đưa đến lầu hồng,
2178 Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
2179 Từ rằng: Tâm phúc tương cờ Tâm phúc tương cờ: Tương cờ tức tương kỳ. Lòng dạ hứa hẹn với nhau. Từ Hải muốn cùng Kiều kết thành đôi lứa tri kỷ chứ không phải là cái tình yêu đương trăng gió tạm bợ.
2180 Phải người trăng gió vật vờ hay sao?
2181 Bấy lâu nghe tiếng má đào,
2182 Mắt xanh chẳng để ai vào có không? Mắt xanh: Nguyên Tịch đời Tấn, trọng ai thì nhìn bằng con mắt xanh, khinh ai thì nhìn bằng con mắt trắng. Câu này ý nói: Từ Hải hỏi Kiều, xưa nay nàng chưa hề xem trọng ai có phải không?
2183 Một đời được mấy anh hùng,
2184 Bõ chi cá chậu, chim lồng mà chơi! Cá chậu chim lồng: Chỉ hạng người tầm thường, sống tron vòng giam hãm câu thúc.
2185 Nàng rằng: Người dạy quá lời,
2186 Thân này còn dám xem ai làm thường!
2187 Chút riêng chọn đá thử vàng,
2188 Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
2189 Còn như vào trước ra sau,
2190 Ai cho kén chọn vàng thau tại mình.
2191 Từ rằng: Lời nói hữu tình,
2192 Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên Quân. Bình-nguyên quân: Chính tên là Triệu Thắng, một trong thần nhà Triệu, đời Chiến quốc được phong đất ở Bình Nguyên nên gọi là Bình nguyên quân, nổi tiếng là người hiếu khách. Cao Thích đời Đường có câu: Vị trí can đảm hướng thuỳ thị, linh nhân khước ức Bình Nguyên quân, nghĩa là chẳng biết gan mật hướng vào ai, khiến người ta lại nhớ Bình Nguyên quân.
2193 Lại đây xem lại cho gần,
2194 Phỏng tin được một vài phần hay không?
2195 Thưa rằng: Lượng cả bao dong,
2196 Tấn Dương được thấy mây rồng có phen. Tấn Dương: Tên đất, nơi Đường Cao tổ khởi binh đánh nhà Tuỳ, dựng nên đế nghiệp. Câu này ý nói: Thuý Kiều tin tưởng là Từ Hải sẽ làm nên sự nghiệp đế vương.
2197 Rộng thương cỏ nội hoa hèn,
2198 Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau!
2199 Nghe lời vừa ý gật đầu,
2200 Cười rằng: Tri kỷ trước sau mấy người! Tri kỷ: Người hiểu biết mình.
2201 Khen cho con mắt tinh đời,
2202 Anh hùng đoán giữa trần ai mới già! Trần ai: Bụi bậm, chỉ lúc người anh hùng còn ẩn náu, chưa có danh vụ gì để phân biệt với người thường.
2203 Một lời đã biết tên ta,
2204 Muôn chung nghìn tứ cũng là có nhau! Nghìn tứ do chữ thiên tứ, nghìn cỗ xe chỉ cảnh giàu sang.
2205 Hai bên ý hợp tâm đầu, Ý hợp tâm đầu: Tâm tình và ý nghĩa đều tương đắc với nhau.
2206 Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân!
2207 Ngỏ lời nói với băng nhân,
2208 Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn. Nguyên ngân: Số tiền bỏ ra khi trước. Phát hoàn: Đưa trả lại.
2209 Buồn riêng sửa chốn thanh nhàn,
2210 Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên. Bát tiên: Tám vị tiên là Chung Ly Quyền, Lã Động Tần, Trương Quả Lão, Lý Thiết Quái, Lam Thái Hoà, Tào Quốc Cữu, Hà Tiên Cô, Hàn Tương Tử. Người ta hay vẽ hình tám vị tiên này trên màn trướng.
2211 Trai anh hùng, gái thuyền nguyên,
2212 Phỉ nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng. Sánh phượng, cưỡi rồng: Xưa Kính Trọng, người nước Tần, được quan đại phu nước Tề gả con gái cho, trong quẻ bói được câu: Phượng hoàng vu phi... (Chim phượng hoàng cung bay). Đời Đông Hán, Hoàng Hiến và Lý Ung là hai người có danh vọng, cùng lấy con gái Hoàn Yến, người đời khen hai con gái Hoàn Yến đều cưỡi rồng. Câu này dùng ý hai điển ấy để nói Từ Hải, Thuý Kiều đẹp duyên với nhau.
2213 Nửa năm hương lửa đương nồng,
2214 Trượng phu thoắt đã động lòng bốn phương. Trượng phu: ở đây có nghĩa là đàn ông tài giỏi, có chí lớn.
2215 Trông vời trời bể mênh mang,
2216 Thanh gươm, yên ngựa lên đàng thẳng rong.
2217 Nàng rằng: Phận gái chữ tòng,
2218 Chàng đi thiếp cũng quyết lòng xin đi!
2219 Từ rằng: Tâm phúc tương tri, Tâm phúc tương tri: Biết nhau từ trong thâm tâm, hiểu rõ bụng dạ của nhau.
2220 Sao chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình? Nữ nhi thường tình: cái tính thông thường của đàn bà, con gái.
2221 Bao giờ mười vạn tinh binh,
2222 Tiếng chiêng dậy đất, bóng tinh rợp đường Chiêng: Tức chính cổ, chỉ chung chiêng trống. Tinh: Tức tinh kỳ, chỉ chung cờ quạt, tượng trưng cho nghi vệ và đội ngũ quân lính ngày xưa.
2223 Làm cho rõ mặt phi thường,
2224 Bấy giờ ta sẽ rước nàng nghi gia, Nghi gia: Do chữ nghi kỳ thất gia ở Kinh Thi, ý nói vợ chồng hoà hợp. ở đây, hai chữ nghi gia có nghĩa là gái về nhà chồng.
2225 Bằng ngay bốn bể không nhà,
2226 Theo càng thêm bận, biết là đi đâu?
2227 Đành lòng chờ đó ít lâu,
2228 Chầy chăng là một năm sau vội gì?
2229 Quyết lời rứt áo ra đi,
2230 Cánh bằng tiện gió cất lìa dậm khơi. Bằng : Một loại chim rất lớn. Sách Trang Tử có câu Bằng chi tỉ ư Nam minh đã, đoàn phù dạo nhi thường giả cửu vạn lý (Chim bằng khi rời biển Nam, vỗ cánh trong làn gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm tầng không). Người ta thường dùng hình ảnh ấy để chỉ người anh hùng có địa bàn hoạt động rộng rãi, có mưu đồ sự nghiệp lớn lao.
2231 Nàng thì chiếc bóng song mai,
2232 Đêm thâu đằng đẵng, nhặt cài then mây.
2233 Sân rêu chẳng vẽ dấu giầy,
2234 Cỏ cao hơn thước, liễu gầy vài phân.
2235 Đoái thương muôn dặm tử phần Hán Cao tổ quê ở Phần Du, sau khi làm vua có về làng ấy chơi. Người sau bèn dùng hai chữ phần du để chỉ quê nhà, ở đây hợp với chũ tang tử thành tử phần để chỉ quê nhà.
2236 Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa; Thơ Hàn Dũ đời Đường: Vân hoành Tần Lĩnh gia hà tại? Nghĩa là: Mây che ngang núi Tần, biết quê nhà ở đâu? ý nói Kiều nhớ nhà.
2237 Xót thay huyên cỗi xuân già,
2238 Tấm lòng thương nhớ, biết là có nguôi.
2239 Chốc là mười mấy năm trời,
2240 Còn ra khi đã da mồi tóc sương.
2241 Tiếc thay chút nghĩa cũ càng,
2242 Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng! Kiều tuy dứt tình với Kim Trọng, nhưng lòng vẫn không quên chàng, cũng vì như ngó sen bị bẻ gãy, mà sợi tơ vẫn liền với nhau.
2243 Duyên em dù nối chỉ hồng,
2244 May ra khi đã tay bồng tay mang.
2245 Tấc lòng cố quốc tha hương, Cố quốc tha hương: Có nghĩa là quê nhà đất khách.
2246 Đường kia nỗi nọ ngổn ngang bời bời.
2247 Cánh hồng bay bổng tuyệt vời,
2248 Đã mòn con mắt phương trời đăm đăm.
2249 Đêm ngày luống những âm thầm,
2250 Lửa binh đâu đã ầm ầm một phương, Lửa binh: Do chữ binh hoả nghĩa là giặc giã.
2251 Ngất trời sát khí mơ màng, Sát khí : Cái khí dữ dội của cảnh chém giết, thường được dùng để chỉ cảnh binh đao sát phạt.
2252 Đầy sông kình ngạc, chật đường giáp binh. Kình ngạc : Hai giống cá to, dữ, thường được dùng để chỉ những tay kiệt hiệt trong đám giặc giã. Giáp binh : áo giáp và binh khí, đây dùng để chỉ quân lính.
2253 Người quen kẻ thuộc chung quanh
2254 Nhủ nàng hãy tạm lánh mình một nơi.
2255 Nàng rằng: Trước đã hẹn lời,
2256 Dẫu trong nguy hiểm dám rời ước xưa.
2257 Còn đương dùng dắng ngẩn ngơ
2258 Mái ngoài đã thấy bóng cờ tiếng loa.
2259 Giáp binh kéo đến quanh nhà,
2260 Đồng thanh cùng gửi: nào là phu nhân? Phu nhân: Tiếng xưng hô đối với vợ các người tôn quí. Đây chỉ Thuý Kiều.
2261 Hai bên mười vị tướng quân,
2262 Đặt gươm, cởi giáp, trước sân khấu đầu.
2263 Cung nga, thể nữ nối sau, Cung nga : Gái hầu trong cung, cung nữ. Thế nữ : Loại gái hầu kém cung nữ một bậc, ở đây tác giả dùng những danh từ ấy là có ý xem Từ Hải như một vị đế vương.
2264 Rằng: Vâng lệnh chỉ rước chầu vu qui.
2265 Sẵn sàng phượng liễn loan nghi, Phượng liễn loan nghi: Xe, kiệu và đồ nghi trượng có chạm khắc thêu vẽ hình loan, chim phượng.
2266 Hoa quan phấp phới hà y rỡ ràng. Hoa quan: Mũ hoa. Hà y: áo mầu hồng như ràng mặt trời..
2267 Dựng cờ, nổi trống lên đàng,
2268 Trúc tơ nổi trước, kiệu vàng theo sau.
2269 Hỏa bài tiền lộ ruổi mau, Hoả bài: Cái thẻ bài hoả tốc, cầm đi trước để báo tin.
2270 Nam đình nghe động trống chầu đại doanh. Nam đình: Triều đình phương Nam do Từ Hải lập ra. Đại doanh: Doanh trại lớn, nơi đóng đại quân của Từ Hải.
2271 Kéo cờ lũy, phát súng thành,
2272 Từ công ra ngựa, thân nghênh cửa ngoài. Thân nghênh: Tự mình đích thân ra đón.
2273 Rỡ mình, là vẻ cân đai, Cân: Khăn (mũ);đai: Cái đai vòng quanh áo lễ. Câu này ý nói Từ Hải lúc này ăn mặc không phải như lần gặp Kiều khi còn hàn vi, mà đã ăn mặc theo cung cách đế vương.
2274 Hãy còn hàm én mày ngài như xưa.
2275 Cười rằng: Cá nước duyên ưa, Cá nước duyên ưa: Do câu ngư thuỷ duyên hài, ý nói vợ chồng đẹp duyên với nhau.
2276 Nhớ lời nói những bao giờ hay không?
2277 Anh hùng mới biết anh hùng,
2278 Rầy xem phỏng đã cam lòng ấy chưa?
2279 Nàng rằng: Chút phận ngây thơ,
2280 Cũng may dây cát được nhờ bóng cây.
2281 Đến bây giờ mới thấy đây,
2282 Mà lòng đã chắc những ngày một hai.
2283 Cùng nhau trông mặt cả cười,
2284 Dan tay về chốn trướng mai tự tình. Trướng mai: Trướng có thêu hoa mai, chỉ phòng nằm của vợ chồng.
2285 Tiệc bày thưởng tướng khao binh
2286 Om thòm trống trận, rập rình nhạc quân.
2287 Vinh hoa bõ lúc phong trần,
2288 Chữ tình ngày lại thêm xuân một ngày.
2289 Trong quân có lúc vui vầy,
2290 Thong dong mới kể sự ngày hàn vi:
2291 Khi Vô Tích, khi Lâm Tri,
2292 Nơi thì lừa đảo, nời thì xót thương.
2293 Tấm thân rày đã nhẹ nhàng,
2294 Chút còn ân oán đôi đàng chưa xong.
2295 Từ Công nghe nói thủy chung,
2296 Bất bình nổi trận đùng đùng sấm vang.
2297 Nghiêm quân tuyển tướng sẵn sàng, Nghiêm quân: Chỉnh đốn hàng ngũ quân lính. Tuyển tướng: Lựa chọn tướng tá.
2298 Dưới cờ một lệnh vội vàng ruổi sao. Ruổi sao: Do chữ tinh trì, ý nói đi nhanh như sao đổi ngôi.
2299 Ba quân chỉ ngọn cờ đào, Ba quân: Danh từ chỉ chung quân đội. Đời xưa các nước chư hầu có ba quân, mỗi quân 12500 người. Và các nước thường chia quân đội làm ba bộ phận: trung quân, tả quân, hữu quân;hoặc: trung quân, thượng quân, hạ quân.
2300 Đạo ra Vô Tích, đạo vào Lâm Tri,
2301 Mấy người phụ bạc xưa kia,
2302 Chiếu danh tầm nã bắt về hỏi tra.
2303 Lại sai lệnh tiễn truyền qua, Lệnh tiễn: Cờ lệnh có cắm mũi tên sắt của các tướng soái dùng để làm hiệu lệnh hoặc để làm tin.
2304 Giữ giàng họ Thúc một nhà cho yên.
2305 Mụ quản gia, vãi Giác Duyên,
2306 Cũng sai lệnh tiễn đem tin rước mời.
2307 Thệ sư kể hết mọi lời, Thệ sư: Lời tuyên cáo và hiểu dụ quân sĩ trước lúc xuất quân.
2308 Lòng lòng cũng giận, người người chấp uy! Chấp uy: Chấp hành uy lệnh.
2309 Đạo trời báo phục chỉn ghê, Báo phục: Bảo trả lại, ý nói làm ân thì sẽ được trả ân, làm oán thì sẽ có lúc bị người ta trả oán.
2310 Khéo thay! Một mẻ tóm về đầy nơi,
2311 Quân trung gươm lớn áo dài,
2312 Vệ trong thị lập, cơ ngoài song phi. Cơ, về: Tên gọi các đơn vị quân lính đời xưa. Thị lập: Đứng chầu. Song phi: Dàn làm hai hàng.
2313 Sẵn sàng tề chỉnh uy nghi,
2314 Bác đồng chật đất, tinh kỳ rợp sân. Bác đồng: Súng bằng đồng.
2315 Trướng hùm mở giữa trung quân, Trường hùm: Dịch chữ hổ trướng. Xưa thường dùng da hùm làm thành cái màn lớn để chủ soái họp bàn với các tướng, nên người sau quen dùng chữ "hổ trướng" để chỉ chỗ làm việc của các tướng soái. Trung quân: Đội quân đóng ở giữa, do chính chủ tướng chỉ huy.
2316 Từ Công sánh với phu nhân cùng ngồi.
2317 Tiên nghiêm trống chửa dứt hồi
2318 Điểm danh trước dẫn chực ngoài cửa viên. Cửa viên: Viên là cái càng xe. Đời xưa lúc quân đội cắm trại thường dùng xe làm cửa, nên cửa doanh trại của quân đội gọi là "viên môn".
2319 Từ rằng: Ân, oán hai bên,
2320 Mặc nàng xử quyết báo đền cho minh
2321 Nàng rằng: Nhờ cậy uy linh,
2322 Hãy xin báo đáp ân tình cho phu.
2323 Báo ân rồi sẽ trả thù.
2324 Từ rằng: Việc ấy phó cho mặc nàng.
2325 Cho gươm mời đến Thúc lang,
2326 Mặt như chàm đổ, mình giường giẽ run. Chàm đổ: Mặt xanh như màu chàm đổ vào. Giẽ run: Mình run như chim giẻ.
2327 Nàng rằng: Nghĩa trọng nghìn non,
2328 Lâm Tri người cũ, chàng còn nhớ không?
2329 Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, Sâm và Thương: Theo nhận thức của người xưa, thì sao Sâm ở phương tây sao Thương ở phương đông, sao này lặn sao kia mới mọc. Hai sao này không bao giờ gặp nhau, nên người ta dùng để chỉ cảnh xa cách mỗi người một nơi. Đối chiếu thiên văn học hiện nay đó là hai sao Orion và Scorpion.
2330 Tại ai, há dám phụ lòng cố nhân?
2331 Gấm trăm cuốn bạc nghìn cân,
2332 Tạ lòng dễ xứng, báo ân gọi là!
2333 Vợ chàng quỷ quái tinh ma,
2334 Phen này kẻ cắp bà già gặp nhau! Tục ngữ: Kẻ cắp gặp bà già, ý nói hai kẻ ranh ma quỷ quái lại gặp phải nhau.
2335 Kiến bò miệng chén chưa lâu,
2336 Mưu sâu cũng trả nghĩa sâu cho vừa.
2337 Thúc Sinh trông mặt bấy giờ,
2338 Mồ hôi chàng đã như mưa ướt đầm.
2339 Lòng riêng mừng sợ khôn cầm,
2340 Sợ thay mà lại mừng thầm cho ai.
2341 Mụ già, sư trưởng thứ hai, Mụ già: Chỉ bà quản gia nhà họ Hoạn. Sư trưởng: Chỉ Giác Duyên.
2342 Thoắt đưa đến trước vội mời lên trên:
2343 Dắt tay mở mặt cho nhìn:
2344 Hoa Nô kia với Trạc Tuyền cũng tôi.
2345 Nhớ khi lỡ bước xẩy vời,
2346 Non vàng chưa dễ đền bồi tấm thương.
2347 Nghìn vàng gọi chút lễ thường,
2348 Mà lòng phiếu mẫu mấy vàng cho cân? Phiếu mẫu: Bà làm nghề giặt sợi ở bến nước. Hàn Tín đời Hán lúc hàn vi được bà Phiếu mẫu đãi một bữa cơm, sau làm đến tước vương, tạ ơn nghìn vàng.
2349 Hai người, trông mặt tần ngần,
2350 Nửa phần khiếp sợ, nửa phần mừng vui.
2351 Nàng rằng: Xin hãy dốn ngôi,
2352 Xem cho rõ mặt, biết tôi báo thù!
2353 Kíp truyền chư tướng hiến phù, Hiến phù: Dâng nộp những người bắt được.
2354 Lại đem các tích phạm tù hậu tra. Hậu tra: Chờ để tra xét.
2355 Dưới cờ, gươm tuốt nắp ra,
2356 Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
2357 Thoạt trông nàng đã chào thưa:
2358 Tiểu thư cũng có bây giờ đến đây?
2359 Đàn bà dễ có mấy tay,
2360 Đời xưa mấy mặt đời này mấy gan?
2361 Dễ dàng là thói hồng nhan,
2362 Càng cay nghiệt lắm càng oan trái nhiều!
2363 Hoạn Thư hồn lạc phách xiêu,
2364 Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu ca.
2365 Rằng: Tôi chút dạ đàn bà,
2366 Ghen tuông thì cũng người ta thường tình,
2367 Nghĩ cho khi gác viết kinh,
2368 Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo.
2369 Lòng riêng riêng những kính yêu;
2370 Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho ai.
2371 Trót lòng gây việc chông gai,
2372 Còn nhờ lượng bể thương bài nào chăng?
2373 Khen cho: Thật đã nên rằng,
2374 Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời,
2375 Tha ra thì cũng may đời,
2376 Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
2377 Đã lòng tri quá thì nên, Tri quá: Biết lỗi, từ mình biết nhận rằng mình có lỗi.
2378 Truyền quân lệnh xuống trường tiền tha ngay.
2379 Tạ lòng lạy trước sân may,
2380 Cửa viên lại dắt một dây dẫn vào,
2381 Nàng rằng: Lồng lộng trời cao,
2382 Hại nhân, nhân hại sự nào tại ta? Hại nhân, nhân hại: Làm người thì sẽ bị người làm hại.
2383 Trước là Bạc Hạnh, Bạc Bà,
2384 Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
2385 Tú bà cùng Mã Giám Sinh,
2386 Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
2387 Lệnh quân truyền xuống nội đao, Nội đao: Quân đao phủ, chuyên việc chém người.
2388 Thề sao thì lại cứ sao gia hình,
2389 Máu rơi thịt nát tan tành,
2390 Ai ai trông thấy hồn kinh phách rời.
2391 Cho hay muôn sự tại trời,
2392 Phụ người, chẳng bõ khi người phụ ta!
2393 Mấy người bạc ác tinh ma,
2394 Mình làm mình chịu kêu mà ai thương.
2395 Ba quân đông mặt pháp trường, Pháp trường: Chỗ để hành hình người có tội.
2396 Thanh thiên, bạch nhật rõ ràng cho coi. Thanh thiên bạch nhật: Trời xanh ngày trắng, ý nói giữa ban ngày ban mặt, ai cũng được chứng kiến.
2397 Việc nàng báo phục vừa rồi,
2398 Giác Duyên vội vã gởi lời từ qui. Từ qui: Từ giã ra về.
2399 Nàng rằng: Thiên tải nhất thì, Thiên tải nhất thì: Ngàn năm mới có một dịp. Câu này thường dùng để chỉ dịp may hiếm có. Bàn hoàn: Đây có nghĩa là gặp gỡ trò chuyện.
2400 Cố nhân đã dễ mấy khi bàn hoàn.
2401 Rồi đây bèo hợp mây tan,
2402 Biết đâu hạc nội mây ngàn là đâu!
2403 Sư rằng: Cũng chẳng bao lâu,
2404 Trong năm năm lại gặp nhau đó mà. Hạc nội: Chim hạc ở ngoài đồng nội. Mây ngàn: Đám mây bay trên rừng núi. ý nói nay đây mai đó, nơi ở không nhất định.
2405 Nhớ ngày hành cước phương xa, Hành cước: Đi bộ, tiếng nhà Phật, chỉ việc các nhà sư đi vân du.
2406 Gặp sư Tam Hợp vốn là tiên tri. Tiên tri: Biết trước mọi việc chưa xảy ra.
2407 Bảo cho hội ngộ chi kỳ, Hội ngộ chi kỳ: Cái kỳ hẹn gặp gỡ nhau.
2408 Năm nay là một nữa thì năm năm.
2409 Mới hay tiền định chẳng lầm, Tiền định: Đã định sẵn từ trước.
2410 Đã tin điều trước ắt nhằm việc sau.
2411 Còn nhiều ân ái với nhau,
2412 Cơ duyên nào đã hết đâu vội gì?
2413 Nàng rằng: Tiền định tiên tri,
2414 Lời sư đã dạy ắt thì chẳng sai.
2415 Họa bao giờ có gặp người,
2416 Vì tôi cậy hỏi một lời chung thân. Chung thân: Trọn đời, ý nói Kiều muốn hỏi số phận của mình suốt đời ra sao.
2417 Giác Duyên vâng dặn ân cần,
2418 Tạ từ thoắt đã dời chân cõi ngoài.
2419 Nàng từ ân oán rạch ròi,
2420 Bể oan dường đã vơi vơi cạnh lòng.
2421 Tạ ân lạy trước Từ công:
2422 Chút thân bồ liễu nào mong có rày!
2423 Trộm nhờ sấm sét ra tay,
2424 Tấc riêng như cất gánh đầy đổ đi!
2425 Chạm xương chép dạ xiết chi, Khắc xương ghi dạ: Do chữ minh tâm khắc cốt: ý nói ơn sâu của Kiều xin ghi vào lòng, khắc vào xương không bao giờ quên.
2426 Dễ đem gan óc đền nghì trời mây! Nghì trời mây: Ơn nghĩa cao cả như trời mây.
2427 Từ rằng: Quốc sĩ xưa nay, Quốc sĩ: Kẻ sĩ tài giỏi có tiếng trong nước.
2428 Chọn người tri kỷ một ngày được chăng?
2429 Anh hùng tiếng đã gọi rằng,
2430 Giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha! Cố ngữ: Lộ kiến bất bình, bạt dao tương trợ, ý nói người anh hùng nghĩa hiệp, giữa đường đi mà thấy điều gì không công bằng thì tuốt gươm ra mà giúp sức cho người bị áp bức. Câu này mượn ý ấy.
2431 Huống chi việc cũng việc nhà,
2432 Lọ là thâm tạ mới là tri ân. Thâm tạ: Tạ ơn một cách sâu sắc. Tri ân: Biết ơn của người khác đối với mình.
2433 Xót nàng còn chút song thân,
2434 Bấy nay kẻ Việt người Tần cách xa. Việt: Một xứ ở Đông nam Trung Quốc;Tần: Một xứ ở bắc Trung Quốc. Kẻ Việt người Tần có nghĩa là cách biệt xa xôi.
2435 Sao cho muôn dặm một nhà,
2436 Cho người thấy mặt là ta cam lòng.
2437 Vội truyền sửa tiệc quân trung,
2438 Muôn binh nghìn tướng hội đồng tẩy oan. Tẩy oan: Rửa tội oan, ý nói Từ Hải sai mở tiệc để làm hội rửa sạch tội oan cho Kiều.
2439 Thừa cơ trúc chẻ ngói tan,
2440 Binh uy từ ấy sấm ran trong ngoài. Bình uy: Uy thế của quân đội. Câu này ý nói: Uy thế của quân Từ Hải từ đó vang dội trong ngoài như sấm dậy.
2441 Triều đình riêng một góc trời,
2442 Gồm hai văn võ rạch đôi sơn hà.
2443 Đòi phen gió quét mưa sa,
2444 Huyện thành đạp đổ năm tòa cõi nam. Huyện thành: Thành trì của một huyện. Câu này ý nói: Quân Từ Hải đánh chiếm được năm huyện phía Nam Trung Quốc.
2445 Phong trần mài một lưỡi gươm,
2446 Những loài giá áo túi cơm sá gì! Giá áo túi cơm: Cái giá để mắc áo, cái túi để đựng cơm ý nói người vô dụng hèn kém.
2447 Nghênh ngang một cõi biên thùy,
2448 Thiếu gì cô quả, thiếu gì bá vương! Cô và quả: Tiếng tự xưng của bọn vua chúa đời xưa. Bá Vương cũng nghĩa như vua chúa. Câu này ý nói: Từ Hải cũng xưng cô xưng quả, làm vương làm bá một phương chứ không kém gì ai.
2449 Trước cờ ai dám tranh cường, Tranh cường: Đua tranh về sức mạnh. Câu này ý nói: Trước ngọn cờ của Từ Hải không ai dám chống lại.
2450 Năm năm hùng cứ một phương hải tần. Hùng cứ: Lấy sức mạnh mà chiếm giữ. Hải tần: Đất ven biển.
2451 Có quan tổng đốc trọng thần,
2452 Là Hồ Tôn Hiến kinh luân gồm tài. Kinh luân: Nghĩa đen là quay tơ và bện tơ, người ta thường dùng để nói tài sắp xếp chính sự, kinh bang tế thế.
2453 Đẩy xe vâng chỉ đặc sai, Đẩy xe: Do chữ thôi cốc (đẩy bánh xe). Đời xưa, khi sai tướng đi đánh giặc, vua thường tự mình đẩy vào xe của viên tướng một cái, để tỏ ý tôn trọng. Câu này ý nói: vua nhà Minh sai Hồ Tôn Hiến đi đánh Từ Hải là một việc rất quan trọng.
2454 Tiện nghi bát tiểu việc ngoài đổng nhung. Tiện nghi bát tiễu: Tuỳ tiện mà đánh đẹp. Đổng nhung: Trông coi, đốc suất việc quân.
2455 Biết Từ là đấng anh hùng,
2456 Biết nàng cũng dự quân trung luận bàn.
2457 Đóng quân làm chước chiêu an, Chiêu an: Kêu gọi chiêu dụ cho giặc đầu hàng.
2458 Ngọc vàng gấm vóc sai quan thuyết hàng.
2459 Lại riêng một lễ với nàng,
2460 Hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân.
2461 Tin vào gởi trước trung quân,
2462 Từ công riêng hãy mười phân hồ đồ.
2463 Một tay gây dựng cơ đồ,
2464 Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành!
2465 Bó thân về với triều đình,
2466 Hàng thần lơ láo phận mình ra đâu?
2467 Áo xiêm ràng buộc lấy nhau,
2468 Vào luồn ra cúi công hầu mà chi?
2469 Sao bằng riêng một biên thùy,
2470 Sức này đã dễ làm gì được nhau?
2471 Chọc trời khuấy nước mặc dầu,
2472 Dọc ngang nào biết trên đầu có ai?
2473 Nàng thời thật dạ tin người,
2474 Lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu.
2475 Nghĩ mình mặt nước cánh bèo,
2476 Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân.
2477 Bằng nay chịu tiếng vương thần, Vương thần: Bề tôi của nhà vua.
2478 Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì! Thanh vân: Mây xanh, người xưa thường dùng để chỉ con đường công danh.
2479 Công tư vẹn cả hai bề,
2480 Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương.
2481 Cũng ngôi mệnh phụ đường đường, Mệnh phụ: Vợ các quan to đời xưa, được vua ban sắc mệnh phong cho làm phu nhân.
2482 Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha.
2483 Trên vì nước dưới vì nhà,
2484 Một là đắc hiếu hai là đắc trung. Đắc hiếu: Tròn đạo hiếu với cha mẹ. Đắc trung: Tròn đạo trung với vua.
2485 Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng, Chiếc bách: Do chữ bách châu có nghĩa là mảnh thuyền, ý nói thân phận lênh đênh.
2486 E dè sóng vỗ hãi hùng cỏ hoa.
2487 Nhân khi bàn bạc gần xa,
2488 Thừa cơ nàng mới bàn ra nói vào.
2489 Rằng: Trong Thánh trạch dồi dào,
2490 Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu.
2491 Bình thành công đức bấy lâu, Bình thành: Do chữ địa bình thiên thành ở Kinh thư, ý nói nhà vua sửa sang việc nước cho trời đất được bằng phẳng.
2492 Ai ai cũng đội trên đầu xiết bao.
2493 Ngẫm từ gây việc binh đao,
2494 Đống xương Vô định đã cao bằng đầu. Vô định: Tên một con sông ở biên thuỳ tỉnh Thiểm Tây (Trung Quốc). Ngày xưa ở con sông ấy đã xảy ra nhiều cuộc chiến tranh giữa người Hán và người Hồ, làm cho rất nhiều người bị chết.
2495 Làm chi để tiếng về sau,
2496 Nghìn năm ai có khen đâu Hoàng Sào! Hoàng Sào: Một lãnh tụ nông dân khởi nghĩa cuối đời Đường, đã từng vây hãm kinh đô Trường An, tung hoành trong mười năm trời, sau bị thủ hạ giết chết.
2497 Sao bằng lộc trọng quyền cao,
2498 Công danh ai dứt lối nào cho qua?
2499 Nghe lời nàng nói mặn mà,
2500 Thế công Từ mới trở ra thế hàng.
2501 Chỉnh nghi tiếp sứ vội vàng,
2502 Hẹn kỳ thúc giáp quyết đường giải binh. Thúc giáp: Bó áo giáp lại. Giải binh: Cho quân đội nghỉ ngơi không chiến đấu nữa.
2503 Tin lời thành hạ yêu minh, Thành hạ yêu minh: Cùng nhau ăn thề dưới thành để tỏ ý không làm hại nhau và thật thà tuân theo đúng những điều đã ước hẹn.
2504 Ngọn cờ ngơ ngác trống canh trễ tràng.
2505 Việc binh bỏ chẳng giữ giàng,
2506 Vương sư dòm đã tỏ tường thực hư. Vương sư: quân của nhà vua, tức quân của Hồ Tôn Hiến.
2507 Hồ công quyết kế thừa cơ, Quyết kế thừa cơ: Quyết định cái mưu là nhân cơ hội Từ Hải trễ tràng việc quân để đánh.
2508 Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công. Lễ tiên bình hậu: Phía trước thì đàn nghi lễ để chiêu hàng, phía sau thì phục sẵn binh mã để phản công. Khắc cờ: ấn định kỳ hạn. Tập công: Đánh úp.
2509 Kéo cờ chiêu phủ tiên phong, Chiêu phủ: Kêu gọi, vỗ về, để cho quy hàng. Tiên phong: Toán quân đi trước. Câu này ý nói: Hồ Tôn Hiến lập mưu cho kéo cờ "chiêu phủ" đi trước.
2510 Lễ nghi dàn trước bác đồng phục sau.
2511 Từ công hờ hững biết đâu,
2512 Đại quan lễ phục ra đầu cửa viên. Đại quan lễ phục: Ăn bận theo phục sức của vị quan lớn không mặc binh phục.
2513 Hồ công ám hiệu trận tiền,
2514 Ba bề phát súng bốn bên kéo cờ.
2515 Đương khi bất ý chẳng ngờ,
2516 Hùm thiêng khi đã sa cơ cũng hèn!
2517 Tử sinh liều giữa trận tiền,
2518 Dạn dầy cho biết gan liền tướng quân!
2519 Khí thiêng khi đã về thần,
2520 Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng!
2521 Trơ như đá vững như đồng,
2522 Ai lay chẳng chuyển ai rung chẳng dời.
2523 Quan quân truy sát đuổi dài.
2524 Ầm ầm sát khí ngất trời ai đang.
2525 Trong hào ngoài lũy tan hoang,
2526 Loạn quân vừa dắt tay nàng đến nơi.
2527 Trong vòng tên đá bời bời,
2528 Thấy Từ còn đứng giữa trời trơ trơ.
2529 Khóc rằng: Trí dũng có thừa, Trí dũng: Trí khôn và sức mạnh.
2530 Bởi nghe lời thiếp nên cơ hội này!
2531 Mặt nào trông thấy nhau đây?
2532 Thà liều sống thác một ngày với nhau!
2533 Dòng thu như dội cơn sầu, Dòng thu: Đây là chỉ nước mắt.
2534 Dứt lời nàng cũng gieo đầu một bên.
2535 Lạ thay oan khí tương triền! Oan khí tương triền: Cái oan khí ức vấn vít lại với nhau. ý nói: Giữa Từ Hải và Thuý Kiều hình như cùng chung mối uất ức.
2536 Nàng vừa phục xuống Từ liền ngã ra.
2537 Quan quân kẻ lại người qua,
2538 Xót nàng sẽ lại vực ra dần dần.
2539 Đem vào đến trước trung quân,
2540 Hồ công thấy mặt ân cần hỏi han.
2541 Rằng: Nàng chút phận hồng nhan,
2542 Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương! Binh cách: Binh là binh khí. Cách là áo giáp và mũ đầu mâu. Người ta thường dùng hai chữ binh cách để chỉ cuộc binh đao chinh chiến.
2543 Đã hay thành toán miếu đường, Thành toán miếu đường: Mưu chước đã sắp đặt sẵn ở nơi tốn miếu triều đường. Câu này ý nói: đành hay triều đình đã có mưu kế sẵn, nhưng cũng nhờ lời nàng nói giúp mới nên việc.
2544 Giúp công cũng có lời nàng mới nên.
2545 Bây giờ sự đã vẹn tuyền,
2546 Mặc lòng nghĩ lấy muốn xin bề nào?
2547 Nàng càng giọt ngọc tuôn dào,
2548 Ngập ngừng mới gửi thấp cao sự lòng.
2549 Rằng: Từ là đấng anh hùng,
2550 Dọc ngang trời rộng vẫy vùng bể khơi!
2551 Tin tôi nên quá nghe lời,
2552 Đem thân bách chiến làm tôi triều đình. Bách chiến: Trăm trận đánh, ý nói Từ Hải là một người dạn dày trong chiến trận.
2553 Ngỡ là phu quý phụ vinh, Phu quí phụ vinh: Chồng làm nên quan sang thì vợ cũng được vinh hiển.
2554 Ai ngờ một phút tan tành thịt xương!
2555 Năm năm trời bể ngang tàng, Ngang tàng: Cũng cú nghĩa như hiên ngang, ý nói người tung hoành ngang trời dọc đất.
2556 Đem mình đi bỏ chiến trường như không.
2557 Khéo khuyên kể lấy làm công,
2558 Kể bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu!
2559 Xét mình công ít tội nhiều,
2560 Sống thừa tôi đã nên liều mình tôi!
2561 Xin cho tiện thổ một doi, Tiện thổ: Mướng đất xấu.
2562 Gọi là đắp điếm cho người tử sinh.
2563 Hồ công nghe nói thương tình,
2564 Truyền cho cảo táng di hình bên sông. Cảo táng: Chôn một cách sơ sài, không có khâm liệm quan quách gì. Di hình: Cũng như di hài.
2565 Trong quân mở tiệc hạ công, Hạ công: Mừng công (Thắng trận).
2566 Xôn xao tơ trúc hội đồng quân quan.
2567 Bắt nàng thị yến dưới màn, Thị yến: Hầu hạ bên bàn tiệc.
2568 Dở say lại ép cung đàn nhặt tâu.
2569 Một cung gió thảm mưa sầu,
2570 Bốn dây nhỏ máu năm đầu ngón tay!
2571 Ve ngâm vượn hót nào tày,
2572 Lọt tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
2573 Hỏi rằng: Này khúc ở đâu?
2574 Nghe ra muôn oán nghìn sầu lắm thay!
2575 Thưa rằng: Bạc mệnh khúc này,
2576 Phổ vào đàn ấy những ngày còn thơ.
2577 Cung cầm lựa những ngày xưa,
2578 Mà gương bạc mệnh bây giờ là đây!
2579 Nghe càng đắm ngắm càng say,
2580 Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
2581 Dạy rằng: Hương lửa ba sinh, Hương lửa ba sinh: Do chữ tam sinh hương hoả, ý nói duyên nợ vợ chồng từ kiếp xưa để lại.
2582 Dây loan xin nối cầm lành cho ai. Dây loan: Chỉ việc nối lại nhân duyên vợ chồng.
2583 Thưa rằng: Chút phận lạc loài,
2584 Trong mình nghĩ đã có người thác oan.
2585 Còn chi nữa cánh hoa tàn,
2586 Tơ lòng đã dứt dây đàn Tiểu Lân. Tiểu lân: Tên nàng Phùng Thục Phi, vợ vua Hậu chủ nước Tề, đời Nam Bắc triều. Sau khi nước Tề mất, nàng về tay người khác, nhân lúc dây đàn đứt, nàng làm bài thơ cảm hoài trong đó có câu: Dục trí tâm đoạn tuyệt, ưng khan tất thương huyền. Nghĩa là muốn biết tơ lòng dứt nát, nên xem cái dây trên đầu gối thì rõ. Câu này mượn ýcâu thơ ấy.
2587 Rộng thương còn mảnh hồng quần,
2588 Hơi tàn được thấy gốc phần là may! Gốc phần: Do chữ phần du.
2589 Hạ công chén đã quá say,
2590 Hồ công đến lúc rạng ngày nhớ ra.
2591 Nghĩ mình phương diện quốc gia, Phương diện quốc gia: vị quan đảm đang công việc một vùng đất nước.
2592 Quan trên nhắm xuống người ta trông vào.
2593 Phải tuồng trăng gió hay sao,
2594 Sự này biết tính thế nào được đây?
2595 Công nha vừa buổi rạng ngày,
2596 Quyết tình Hồ mới đoán ngay một bài. Công nha: Chỗ làm việc quan, cũng như công môn đườngv.v.
2597 Lệnh quan ai dám cãi lời,
2598 Ép tình mới gán cho người thổ quan. Thổ quan: Cũng như thổ tù, viên quan người ở bản thổ, có thể ở vùng dân tộc ít người.
2599 Ông tơ thực nhẽ đa đoan!
2600 Xe tơ sao khéo vơ quàng vơ xiên?
2601 Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền,
2602 Lá màn rủ thấp ngọn đèn khêu cao.
2603 Nàng càng ủ liễu phai đào,
2604 Trăm phần nào có phần nào phần tươi?
2605 Đành thân cát lấp sóng vùi,
2606 Cướp công cha mẹ thiệt đời thông minh!
2607 Chân trời mặt bể lênh đênh,
2608 Nắm xương biết gởi tử sinh chốn nào,
2609 Duyên đâu ai dứt tơ đào, Tơ đào: Cũng như tơ hồng. Câu này ý nói: Ai đã chia rẽ nhân duyên của mình, đối nghĩa với câu dưới: "Nợ đâu, ai đã giắt vào tận tay?". Nợ đây tức là việc "ép tình mới gán cho người thổ quan".
2610 Nợ đâu ai đã dắt vào tận tay!
2611 Thân sao thân đến thế này?
2612 Còn ngày nào cũng dư ngày ấy thôi!
2613 Đã không biết sống là vui,
2614 Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương!
2615 Một mình cay đắng trăm đường,
2616 Thôi thì nát ngọc tan vàng thì thôi!
2617 Mảnh trăng đã gác non đoài,
2618 Một mình luống những đứng ngồi chưa xong.
2619 Triều đâu nổi tiếng đùng đùng, Triều: Nước thuỷ triều. ở cửa sông Tiền Đường (Trung Quốc) khi triều lên thì có tiếng sóng đùng đùng.
2620 Hỏi ra mới biết rằng sông Tiền Đường.
2621 Nhớ lời thần mộng rõ ràng, Thần mộng: Lời báo mộng của thần, ý nói lời Đạm Tiên dặn trong chiêm bao, lúc Kiều tự vẫn ở nhà Tú Bà: "Sông Tiền Đường sẽ hẹn hò về sau".
2622 Này thôi hết kiếp đoạn trường là đây!
2623 Đạm Tiên nàng nhé có hay!
2624 Hẹn ta thì đợi dưới này rước ta.
2625 Dưới đèn sẵn bức tiên hoa,
2626 Một thiên tuyệt bút gọi là để sau. Tuyệt bút: Bút tích cuối cùng, viết trước khi chết để kể nỗi tâm tình của mình cho người sau biết.
2627 Cửa bồng vội mở rèm châu, Cửa hồng: Cửa thuyền. Rèm châu: Rèm có trang sức châu báu, hoặc rèm sơn màu đỏ.
2628 Trời cao sông rộng một màu bao la.
2629 Rằng: Từ công hậu đãi ta,
2630 Chút vì việc nước mà ra phụ lòng.
2631 Giết chồng mà lại lấy chồng,
2632 Mặt nào còn đứng ở trong cõi đời?
2633 Thôi thì một thác cho rồi,
2634 Tấm lòng phó mặc trên trời dưới sông!
2635 Trông vời con nước mênh mông, Con nước: Tiếng quen gọi của dân chài lưới để chỉ nước thủy triều lên xuống.
2636 Đem mình gieo xuống giữa dòng Trường Giang.
2637 Thổ quan theo vớt vội vàng,
2638 Thời đà đắm ngọc chìm hương mất rồi! Người xưa thường dùng hai chữ hương ngọc để chỉ phụ nữ.
2639 Thương thay cũng một kiếp người,
2640 Hại thay mang lấy sắc tài làm chi!
2641 Những là oan khổ lưu ly,
2642 Chờ cho hết kiếp còn gì là thân!
2643 Mười lăm năm bấy nhiêu lần,
2644 Làm gương cho khách hồng quần thử soi!
2645 Đời người đến thế thì thôi,
2646 Trong cơ âm cực dương hồi khốn hay. Âm cực dương hồi: Khi khí âm đến hết mực thì khí dương lạ trở về. Câu này cũng nghĩa như câu bĩ cực thái lai, ý nói con người ta khi vận đen đã hết thì vận đỏ trở lại.
2647 Mấy người hiếu nghĩa xưa nay,
2648 Trời làm chi đến lâu ngày càng thương!
2649 Giác Duyên từ tiết giã màng,
2650 Đeo bầu quảy níp rộng đường vân du. Bầu: Quả bầu khô rút ruột đi để đựng nước. Níp: Cái tráp đan bằng tre để đựng quần áo sách vở. Hai vật thường dùng của những người đi đường thời xưa. Vân du: Danh từ nhà Phật, ý nói nhà sư đi lang thang nay đây mai đó như đám mây bay vô định.
2651 Gặp bà Tam Hợp đạo cô,
2652 Thong dong hỏi hết nhỏ to sự nàng:
2653 Người sao hiếu nghĩa đủ đường,
2654 Kiếp sao rặt những đoạn trường thế thôi?
2655 Sư rằng: Phúc họa đạo trời, Phúc hoạ đạo trời: Nói người ở đời gặp phúc hay gặp hoạ đều do ý trời, không phải ngẫu nhiên.
2656 Cỗi nguồn cũng ở lòng người mà ra.
2657 Có trời mà cũng tại ta,
2658 Tu là cõi phúc tình là dây oan.
2659 Thúy Kiều sắc sảo khôn ngoan,
2660 Vô duyên là phận hồng nhan đã đành,
2661 Lại mang lấy một chữ tình,
2662 Khư khư mình buộc lấy mình vào trong.
2663 Vậy nên những chốn thong dong,
2664 Ở không yên ổn ngồi không vững vàng.
2665 Ma đưa lối quỷ đem đường,
2666 Lại tìm những chốn đoạn trường mà đi.
2667 Hết nạn ấy đến nạn kia,
2668 Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần. Thanh lâu: Gái điếm. Thanh y: Gái hầu. Thuý Kiều làm gái điếm một lần ở Lâm Tri, một lần ở Châu Thai và làm gái hầu một lần ở nhà Hoạn bà, một lần ở nhà Hoạn Thư.
2669 Trong vòng giáo dựng gươm trần,
2670 Kề răng hùm sói gởi thân tôi đòi. Hùm sói: Người xưa thường dùng hai chữ hùm sói để chỉ các tướng giặc. Đây muốn nói Kiều phải sống với bọn ác độc.
2671 Giữa dòng nước dẫy sóng dồi,
2672 Trước hàm rồng cá gieo mồi thủy tinh.
2673 Oan kia theo mãi với tình,
2674 Một mình mình biết một mình mình hay.
2675 Làm cho sống đọa thác đầy,
2676 Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi!
2677 Giác Duyên nghe nói rụng rời:
2678 Một đời nàng nhé thương ôi còn gì!
2679 Sư rằng: Song chẳng hề chi,
2680 Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Nghiệp duyên: Danh từ nhà Phật có nghĩa là mối duyên nợ do bản thân mình làm nên từ kiếp trước.
2681 Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều,
2682 Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm,
2683 Lấy tình thâm trả nghĩa thâm, Tình thân: Do câu phụ tử tình thân. Câu này ý nói: Thuý Kiều đến bối ơn nghĩa sâu sắc của cha mẹ.
2684 Bán mình đã động hiếu tâm đến trời!
2685 Hại một người cứu muôn người,
2686 Biết đường khinh trọng biết lời phải chăng.
2687 Thửa công đức ấy ai bằng? Thửa công đức: Nghĩa là cứ xem như công đức ấy.
2688 Túc khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi! Túc khiên: Tội lỗi kiếp trước.
2689 Khi nên trời cũng chiều người,
2690 Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
2691 Giác Duyên dù nhớ nghĩa nhau,
2692 Tiền Đường thả một bè lau rước người.
2693 Trước sau cho vẹn một lời,
2694 Duyên ta mà cũng phúc trời chi không!
2695 Giác Duyên nghe nói mừng lòng,
2696 Lân la tìm thú bên sông Tiền đường,
2697 Đánh tranh chụm nóc thảo đường, Thảo đường: Nhà lợp bằng gianh, bằng cỏ.
2698 Một gian nước biếc mây vàng chia đôi.
2699 Thuê năm ngư phủ hai người, Ngư phủ: Người làm nghề chài lưới.
2700 Đóng thuyền chực bến kết chài giăng sông.
2701 Một lòng chẳng quảng mấy công,
2702 Khéo thay gặp gỡ cũng trong chuyển vần!
2703 Kiều từ gieo xuống duềnh ngân, Duềnh ngân: Dòng nước bạc.
2704 Nước xuôi bỗng đã trôi dần tận nơi.
2705 Ngư ông kéo lưới vớt người, Ngư ông: Ông lão đánh cá, tức "ngư phủ" nói trên.
2706 Ngẫm lời Tam Hợp rõ mười chẳng ngoa!
2707 Trên mui lướt mướt áo là,
2708 Tuy dầm hơi nước chưa lòa bóng gương.
2709 Giác Duyên nhận thật mặt nàng,
2710 Nàng còn thiêm thiếp giấc vàng chưa phai.
2711 Mơ màng phách quế hồn mai, Phách quế hồn mai: Do chữ quế phách mai hồn. Hai chữ "quế mai" ở đây dùng cho đẹp lời văn.
2712 Đạm Tiên thoắt đã thấy người ngày xưa.
2713 Rằng: Tôi đã có lòng chờ,
2714 Mất công mười mấy năm thừa ở đây.
2715 Chị sao phận mỏng phúc dày,
2716 Kiếp xưa đã vậy lòng này dễ ai!
2717 Tâm thành đã thấu đến trời,
2718 Bán mình là hiếu cứu người là nhân.
2719 Một niềm vì nước vì dân,
2720 Âm công cất một đồng cân đã già! Âm công: Công đức cứu người làm ngấm ngầm, không ai biết.
2721 Đoạn trường sổ rút tên ra,
2722 Đoạn trường thơ phải đưa mà trả nhau.
2723 Còn nhiều hưởng thụ về lâu,
2724 Duyên xưa tròn trặn phúc sau dồi dào!
2725 Nàng nghe ngơ ngẩn biết sao,
2726 Trạc Tuyền! Nghe tiếng gọi vào bên tai.
2727 Giật mình thoắt tỉnh giấc mai,
2728 Bâng khuâng nào đã biết ai mà nhìn.
2729 Trong thuyền nào thấy Đạm Tiên,
2730 Bên mình chỉ thấy Giác Duyên ngồi kề.
2731 Thấy nhau mừng rỡ trăm bề,
2732 Dọn thuyền mới rước nàng về thảo lư. Thảo lưu: Nhà tranh cũng nghĩa như thảo đường.
2733 Một nhà chung chạ sớm trưa,
2734 Gió trăng mát mặt muối dưa chay lòng.
2735 Bốn bề bát ngát mênh mông,
2736 Triều dâng hôm sớm mây lồng trước sau.
2737 Nạn xưa trút sạch lầu lầu,
2738 Duyên xưa chưa dễ biết đâu chốn này.
2739 Nỗi nàng tai nạn đã đầy,
2740 Nỗi chàng Kim Trọng bấy chầy mới thương.
2741 Từ ngày muôn dặm phù tang, Phù tang: Phù trì đám tang, cũng nghĩa như hộ tang.
2742 Nửa năm ở đất Liêu dương lại nhà.
2743 Vội sang vườn Thúy dò la, Vườn Thuý: Chính nghĩa là cái vườn có hiên "Lãm Thuý" chỗ Kim Trọng trọ học lúc trước. Nhưng ở đây chỉ nơi hai người đi về tình tự lúc trước.
2744 Nhìn phong cảnh cũ nay đà khác xưa.
2745 Đầy vườn cỏ mọc lau thưa,
2746 Song trăng quạnh quẽ vách mưa rã rời.
2747 Trước sau nào thấy bóng người,
2748 Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông. Thôi Hộ đời Đường, nhân tiết Thanh minh, đi đến nơi kỳ ngộ, tìm người con gái đã gặp gỡ năm trước thì chỉ thấy cửa đóng, người đi đâu vắng, nhân đó mà làm bài thơ, trong có câu: nhân diện bất tri hà xứ khứ, đào hoa y cự tiểu đông phong. Nghĩa là: mặt người không biết đi đằng nào, hoa đào vẫn cười với gió đông như cũ. Cây này dùng câu ý thơ ấy để nói không thấy bóng dánh nàng Kiều ở đâu, chỉ thấy hoa đào vẫn cười với gió đông như năm xưa mà thôi.
2749 Xập xè én liệng lầu không,
2750 Cỏ lan mặt đất rêu phong dấu giày.
2751 Cuối tường gai góc mọc đầy,
2752 Đi về này những lối này năm xưa.
2753 Chung quanh lặng ngắt như tờ,
2754 Nỗi niềm tâm sự bây giờ hỏi ai?
2755 Láng giềng có kẻ sang chơi,
2756 Lân la sẽ hỏi một hai sự tình.
2757 Hỏi ông ông mắc tụng đình, Tụng đình: Sân kiện, nơi xử kiện. ở đây dùng với nghĩa việc chỉ kiện cáo.
2758 Hỏi nàng nàng đã bán mình chuộc cha.
2759 Hỏi nhà nhà đã dời xa,
2760 Hỏi chàng Vương với cùng là Thúy Vân.
2761 Đều là sa sút khó khăn,
2762 May thuê viết mướn kiếm ăn lần hồi.
2763 Điều đâu sét đánh lưng trời,
2764 Thoắt nghe chàng thoắt rụng rời xiết bao!
2765 Vội han di trú nơi cao, Di trú: Dời đi ở chỗ khác.
2766 Đánh đường chàng mới tìm vào tận nơi.
2767 Nhà tranh vách đất tả tơi,
2768 Lau treo rèm nát trúc cài phên thưa.
2769 Một sân đất cỏ dầm mưa,
2770 Càng ngao ngán nỗi càng ngơ ngẩn đường!
2771 Đánh liều lên tiếng ngoài tường,
2772 Chàng Vương nghe tiếng vội vàng chạy ra.
2773 Dắt tay vội rước vào nhà,
2774 Mái sau viên ngoại ông bà ra ngay.
2775 Khóc than kể hết niềm tây:
2776 Chàng ôi biết nỗi nước này cho chưa?
2777 Kiều nhi phận mỏng như tờ,
2778 Một lời đã lỗi tóc tơ với chàng!
2779 Gặp cơn gia biến lạ dường, Gia biến: Tai biến của gia đình.
2780 Bán mình nó phải tìm đường cứu cha.
2781 Dùng dằng khi bước chân ra,
2782 Cực trăm nghìn nỗi dặn ba bốn lần.
2783 Trót lời hẹn với lang quân, Lang quân: Tiếng dùng để chỉ người chồng trẻ và chỉ những người trai trẻ nói chung.
2784 Mượn con em nó Thúy Vân thay lời.
2785 Gọi là trả chút nghĩa người,
2786 Sầu này dằng dặc muôn đời chưa quên!
2787 Kiếp này duyên đã phụ duyên,
2788 Dạ đài còn biết sẽ đền lai sinh. Lai sinh: Kiếp sau. Câu này ý nói: nếu như chết mà thiêng thì kiếp sau xin đền bù lại.
2789 Mấy lời ký chú đinh ninh, Ký chú đinh ninh: Ghi chú, dặn dò cặn kẽ.
2790 Ghi lòng để dạ cất mình ra đi.
2791 Phận sao bạc bấy Kiều nhi!
2792 Chàng Kim về đó con thì đi đâu?
2793 Ông bà càng nói càng đau,
2794 Chàng càng nghe nói càng dàu như dưa.
2795 Vật mình vẫy gió tuôn mưa,
2796 Dầm dề giọt ngọc thẫn thờ hồn mai!
2797 Đau đòi đoạn ngất đòi thôi,
2798 Tỉnh ra lại khóc khóc rồi lại mê.
2799 Thấy chàng đau nỗi biệt ly,
2800 Nhẫn ngừng ông mới vỗ về giải khuyên:
2801 Bây giờ ván đã đóng thuyền, Ván đã đóng thuyền: ý nói Thuý Kiều bây giờ đã về tay người khác.
2802 Đã đành phận bạc khôn đền tình chung!
2803 Quá thương chút nghĩa đèo bòng,
2804 Nghìn vàng thân ấy dễ hòng bỏ sao?
2805 Dỗ dành khuyên giải trăm chiều,
2806 Lửa phiền càng dập càng khêu mối phiền.
2807 Thề xưa giở đến kim hoàn, Kim hoàn: Vòng vàng, vật Kim Trọng đưa cho Thuý Kiều làm tin lúc mới gặp nhau (Câu 318: Xuyến vàng đi chiếc, khăn là một vuông).
2808 Của xưa lại giở đến đàn với hương.
2809 Sinh càng trông thấy càng thương.
2810 Gan càng tức tối ruột càng xót xa.
2811 Rằng: Tôi trót quá chân ra,
2812 Để cho đến nỗi trôi hoa dạt bèo.
2813 Cùng nhau thề thốt đã nhiều,
2814 Những điều vàng đá phải điều nói không!
2815 Chưa chăn gối cũng vợ chồng,
2816 Lòng nào mà nỡ dứt lòng cho đang?
2817 Bao nhiêu của mấy ngày đàng,
2818 Còn tôi tôi một gặp nàng mới thôi!
2819 Nỗi thương nói chẳng hết lời,
2820 Tạ từ sinh mới sụt sùi trở ra.
2821 Vội về sửa chốn vườn hoa,
2822 Rước mời viên ngoại ông bà cùng sang.
2823 Thần hôn chăm chút lễ thường,
2824 Dưỡng thân thay tấm lòng nàng ngày xưa. Dưỡng thân: Nuôi cha mẹ. Câu này ý nói: Kim Trọng thay Kiều phụng dưỡng vợ chồng Vương ông như cha mẹ mình.
2825 Đinh ninh mài lệ chép thơ,
2826 Cắt người tìm tõi đưa tờ nhắn nhe.
2827 Biết bao công mướn của thuê,
2828 Lâm thanh mấy độ đi về dặm khơi. Lâm thanh: Mã Giám Sinh nói dối là quê ở đó, nên Kim Trọng mới sai người đến đây hỏi thăm tin Kiều.
2829 Người một nơi hỏi một nơi,
2830 Mênh mông nào biết bể trời nơi nao?
2831 Sinh càng thảm thiết khát khao,
2832 Như nung gan sắt như bào lòng son.
2833 Ruột tằm ngày một héo don,
2834 Tuyết sương ngày một hao mòn hình ve.
2835 Thẩn thờ lúc tỉnh lúc mê,
2836 Máu theo nước mắt hồn lìa chiêm bao.
2837 Xuân huyên lo sợ biết bao,
2838 Quá ra khi đến thế nào mà hay!
2839 Vội vàng sắm sửa chọn ngày,
2840 Duyên Vân sớm đã se dây cho chàng.
2841 Người yểu điệu kẻ văn chương,
2842 Trai tài gái sắc xuân đương vừa thì,
2843 Tuy rằng vui chữ vu quy,
2844 Vui nào đã cất sầu kia được nào!
2845 Khi ăn ở lúc ra vào,
2846 Càng âu duyên mới càng dào tình xưa.
2847 Nỗi nàng nhớ đến bao giờ,
2848 Tuôn châu đòi trận vò tơ trăm vòng.
2849 Có khi vắng vẻ thư phòng,
2850 Đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa.
2851 Bẻ bai rủ rỉ tiếng tơ,
2852 Trầm bay nhạt khói gió đưa lay rèm.
2853 Dường như bên nóc trước thềm,
2854 Tiếng Kiều đồng vọng bóng xiêm mơ màng,
2855 Bởi lòng tạc đá ghi vàng,
2856 Tưởng nàng nên lại thấy nàng về đây.
2857 Những là phiền muộn đêm ngày,
2858 Xuân thu biết đã đổi thay mấy lần?
2859 Chế khoa gặp hội trường văn. Chế khoa: Khoa thi do ý vua mà mở ra, khác với khoa thi thường lệ.
2860 Vương, Kim cùng chiếm bảng xuân một ngày. Bảng xuân: Do chữ xuân bảng, bảng thi về mùa xuân. Chiếm bảng xuân tức là thi đỗ.
2861 Cửa trời rộng mở đường mây, Cửa trời: Do chữ thiên môn, tức là cửa nhà vua. Đường mây: Do chữ vân lộ hay thanh vân lộ, ý nói đường công danh, sĩ hoạn.
2862 Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần. Ngõ hạnh: Tức Hạnh Viên ở kinh đô Tràng An. Đời nhà Đường các tân khoa tiến sĩ được dự tiệc và xem hoa ở đây. Dặm phần: Do chữ phần du mà ra, ý nói quê nhà. Xem chú thích 2235. Câu này tả cảnh vinh hoa của Kim, Vương khi thi đỗ và về vinh qui.
2863 Chàng Vương nhớ đến xa gần,
2864 Sang nhà Chung lão tạ ân chu tuyền. Chu tuyền (hay chu toàn): Làm cho được tròn vẹn. Câu này ý nói: Vương quan làm rể họ Chung.
2865 Tình xưa ân trả nghĩa đền,
2866 Gia thân lại mới kết duyên Châu Trần.
2867 Kim từ nhẹ bước thanh vân,
2868 Nỗi nàng càng nghĩ xa gần càng thương.
2869 Ấy ai dặn ngọc thề vàng,
2870 Bây giờ kim mã ngọc đường với ai? Ngọc đường: Đời Tống Thái Tồng, vua đề ở dinh Hàn Lâm ba chữ Ngọc đường thự. Đời sau bèn dùng những chữ Kim mã ngọc đường để nói chung cảnh quan gia phú quý.
2871 Ngọn bèo chân sóng lạc loài,
2872 Nghĩ mình vinh hiển thương người lưu ly.
2873 Vâng ra ngoại nhậm Lâm truy, Ngoại nhậm: Làm quan ở cõi ngoài (không phải ở huyện nhà).
2874 Quan san nghìn dặm thê nhi một đoàn. Thê nhi: Vợ con.
2875 Cầm đường ngày tháng thanh nhàn, Phụ tử Tiện đời Xuân thu, làm quan huyện, thường hay gảy đàn, người sau bèn gọi đinh quan huyện là cầm đường.
2876 Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao. Triệu Biên đời Tống, đi làm quan, chỉ đem theo một con hạc và một cây đàn, tổ ra người liêm khiết cao thượng.
2877 Phòng xuân trướng rủ hoa đào,
2878 Nàng Vân nằm bỗng chiêm bao thấy nàng.
2879 Tỉnh ra mới rỉ cùng chàng,
2880 Nghe lời chàng cũng hai đường tin nghi.
2881 Họ Lâm Thanh với Lâm Truy,
2882 Khác nhau một chữ hoặc khi có lầm.
2883 Trong cơ thanh khí tương tầm, Thanh khí: Câu này ý nói: Thuý Vân, Thuý Kiều là hai chị em ruột, cho nên dễ cảm thông với nhau.
2884 Ở đây hoặc có giai âm chăng là? Giai âm: Tin tốt.
2885 Thăng đường chàng mới hỏi tra, Thăng đường: Ra ngồi làm việc ở công đường.
2886 Họ Đô có kẻ lại già thưa lên:
2887 Sự này đã ngoại mười niên,
2888 Tôi đà biết mặt biết tên rành rành.
2889 Tú bà cùng Mã Giám sinh,
2890 Đi mua người ở Bắc kinh đưa về.
2891 Thúy Kiều tài sắc ai bì,
2892 Có nghề đàn lại đủ nghề văn thơ.
2893 Kiên trinh chẳng phải gan vừa, Kiên trinh: Kiên quyết giữ gìn trinh tiết.
2894 Liều mình thế ấy phải lừa thế kia. Liều mình: Chỉ việc Thuý Kiều tự vẫn lúc mới đến nhà Tú Bà. Phải lừa chỉ việc sợ bị Sở Khanh lừa đưa đi trốn.
2895 Phong trần chịu đã ê chề,
2896 Tơ duyên sau lại xe về Thúc lang.
2897 Phải tay vợ cả phũ phàng,
2898 Bắt về Vô tích toan đường bẻ hoa.
2899 Rứt mình nàng phải trốn ra,
2900 Chẳng may lại gặp một nhà Bạc kia.
2901 Thoắt buôn về thoắt bán đi,
2902 Mây trôi bèo nổi thiếu gì là nơi!
2903 Bỗng đâu lại gặp một người,
2904 Hơn đời trí dũng nghiêng trời uy linh.
2905 Trong tay mười vạn tinh binh,
2906 Kéo về đóng chật một thành Lâm Truy.
2907 Tóc tơ các tích mọi khi, Tóc tơ: Kẽ tóc chân tơ, ý nói hỏi rất tỷ mỷ.
2908 Oán thì trả oán ân thì trả ân.
2909 Đã nên có nghĩa có nhân,
2910 Trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen.
2911 Chưa từng được họ được tên,
2912 Sự này hỏi Thúc sinh viên mới tường.
2913 Nghe lời đô nói rõ ràng,
2914 Tức thì đưa thiếp mời chàng Thúc sinh.
2915 Nỗi nàng hỏi hết phân minh,
2916 Chồng con đâu tá tính danh là gì?
2917 Thúc rằng: Gặp buổi loạn ly,
2918 Trong quân tôi hỏi thiếu gì tóc tơ.
2919 Đại vương tên Hải họ Từ,
2920 Đánh quen trăm trận sức dư muôn ngườị
2921 Gặp nàng khi ở châu Thai,
2922 Lạ gì quốc sắc thiên tài phải duyên. Thiên tài: Tài trời phú cho.
2923 Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên,
2924 Làm nên động địa kinh thiên đùng đùng. Động địa kinh thiên: Sôi trời nổi đất.
2925 Đại quân đồn đóng cõi đông,
2926 Về sau chẳng biết vân mồng làm sao. Vân mồng: Tiếng cổ, nghĩa là tin tức, manh mối.
2927 Nghe tường ngành ngọn tiêu hao, Tiên hao: Cùng nghĩa với tăm hơi, tin tức.
2928 Lòng riêng chàng luống lao đao thẫn thờ.
2929 Xót thay chiếc lá bơ vơ,
2930 Kiếp trần biết giũ bao giờ cho xong?
2931 Hoa trôi nước chảy xuôi dòng,
2932 Xót thân chìm nỗi đau lòng hợp tan!
2933 Lời xưa đã lỗi muôn vàn,
2934 Mảnh hương còn đó phím đàn còn đây,
2935 Đàn cầm khéo ngẩn ngơ dây,
2936 Lửa hương biết có kiếp này nữa thôi?
2937 Bình bồng còn chút xa xôi, Bình: Bèo, Bồng: Cỏ bồng. Hai vật này thường hay trôi nổi theo nước và gió. ở đây để chỉ tấm thân phiêu bạt của Kiều.
2938 Đỉnh chung sao nỡ ăn ngồi cho an! Đỉnh chung: Đỉnh: Cái vạc để nấu thức ăn. Chung: Cái chuông để đánh báo hiệu giờ ăn. Đỉnh chung ở đây dùng để chỉ cảnh vinh hiển phú quý.
2939 Rắp mong treo ấn từ quan, Treo ấn từ quan: Treo trả cái ấn tại công đường mà bỏ về, không làm quan nữa.
2940 Mấy sông cũng lội mấy ngàn cũng pha.
2941 Dấn mình trong án can qua,
2942 Vào sinh ra tử họa là thấy nhau.
2943 Nghĩ điều trời thẳm vực sâu,
2944 Bóng chim tăm cá biết đâu mà nhìn! Năm mấy: Do chữ Ngũ vân, ý nói tờ chiếu có vẽ mây năm sắc;chiếu trời là chiếu nhà vua.
2945 Những là nấn ná đợi tin,
2946 Nắng mưa biết đã mấy phen đổi dờỉ
2947 Năm mây bỗng thấy chiếu trời,
2948 Khâm ban sắc chỉ đến nơi rành rành. Khâm ban: Chữ khâm, nguyên có nghĩa là kính, sau được dùng để chỉ nhà vua. Ví dụ: như nói khâm sai, khâm định... Sắc chí: Tờ sắc ban bố mệnh lệnh của nhà vua.
2949 Kim thì cải nhậm Nam Bình, Cải nhậm: Đổi đi làm nơi khác. Nam - bình: Tên huyện, thuộc tỉnh Phúc Kiến (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2950 Chàng Vương cũng cải nhậm thành Châu Dương. Châu Dương: Tức Dương Châu, tên phủ thuộc tỉnh Giang Tồ (Trung Quốc), ở phía trên sông Tiền Đường và Hàng Châu.
2951 Sắm xanh xe ngựa vội vàng,
2952 Hai nhà cùng thuận một đường phó quan. Phó quan: Đi đến chỗ làm quan, đi nhậm chức.
2953 Xảy nghe thế giặc đã tan,
2954 Sóng êm Phúc Kiến lửa tàn Chiếc Giang. Phúc Kiến, Chiết Giang: Hai tỉnh phía đông nam Trung Quốc, nơi cát cứ cũ của Từ Hải.
2955 Được tin Kim mới rủ Vương,
2956 Tiện đường cùng lại tìm nàng sau xưa.
2957 Hàng Châu đến đó bây giờ, Hàng Châu: Tên phủ, nay là thủ phủ tỉnh Chiết Giang.
2958 Thật tin hỏi được tóc tơ rành rành.
2959 Rằng: Ngày hôm nọ giao binh,
2960 Thất cơ Từ đã thu linh trận tiền. Thất cơ: Để lỡ cơ mưu, làm sai quân cơ, tức là bị mắc mưu địch. Thu linh: thu khí thiêng, ý nói chết.
2961 Nàng Kiều công cả chẳng đền,
2962 Lệnh quan lại bắt ép duyên thổ tù. Thổ tù: Người tù trưởng ở địa phương, cùng như chữ Thổ quan.
2963 Nàng đà gieo ngọc trầm châu, Ngọc và châu: Thường được dùng để chỉ cái đẹp, cái quý giá: "Gieo ngọc trầm châu" ở đây chỉ việc Thuý Kiều trầm mình.
2964 Sông Tiền Đường đó ấy mồ hồng nhan!
2965 Thương ôi! Không hợp mà tan,
2966 Một nhà vinh hiển riêng oan một nàng!
2967 Chiêu hồn thiết vị lễ thường, Chiêu hồn: Gọi hồn. Thiết vị: Đặt bài vị viết tên hiệu người chết mà thờ cúng. Đàn tràng: Đàn làm lễ giải oan.
2968 Giải oan lập một đàn tràng bên sông.
2969 Ngọn triều non bạc trùng trùng,
2970 Vời trông còn tưởng cánh hồng lúc gieo. Cánh hồng: Cánh chim hồng. Cũng hiểu là phong thái nhẹ nhàng của cô gái đẹp.
2971 Tình thâm bể thảm lạ điều,
2972 Nào hồn tinh vệ biết theo chốn nào? Tinh vệ: Tên một loài chim nhỏ, sống ở bãi bể. Theo sách Thuật dị ký: Xưa con gái vua Viêm đế chết đuối ở biển, hồn hoá thành con chim tinh vệ, hàng ngày ngậm đá ở núi Tây Sơn vứt xuống biển để hòng lấp biển. ở đây ví Thuý Kiều trầm mình nên mượn điểm ấy.
2973 Cơ duyên đâu bỗng lạ sao, Cơ. Cơ trời. Duyên: duyên may. Câu này ý nói: Cơ trời xui khiến, duyên số lạ lùng.
2974 Giác Duyên đâu bỗng tìm vào đến nơi.
2975 Trông lên linh vị chữ bài, Linh vị: Bài vị thờ linh hồn người chết.
2976 Thất kinh mới hỏi: Những người đâu ta?
2977 Với nàng thân thích gần xa,
2978 Người còn sao bỗng làm ma khóc người?
2979 Nghe tin ngơ ngác rụng rời,
2980 Xúm quanh kể lể rộn lời hỏi tra:
2981 Này chồng này mẹ này cha,
2982 Này là em ruột này là em dâu.
2983 Thật tin nghe đã bấy lâu,
2984 Pháp sư dạy thế sự đâu lạ thường! Pháp sư: Tiếng đồn xưng những tăng ni, đạo sĩ cấp trên.
2985 Sư rằng: Nhân quả với nàng, Nhân quả: ở đây có nghĩa như là nhân duyên, duyên nợ.
2986 Lâm Truy buổi trước Tiền Đường buổi sau.
2987 Khi nàng gieo ngọc trầm châu,
2988 Đón nhau tôi đã gặp nhau rước về,
2989 Cùng nhau nương cửa bồ đề, Cửa bồ đề: Cửa Phật.
2990 Thảo am đó cũng gần kề chẳng xa. Thảo am: Chùa lợp tranh.
2991 Phật tiền ngày bạc lân la, Phật tiền: Trước bàn thờ Phật.
2992 Đăm đăm nàng cũng nhớ nhà khôn khuây.
2993 Nghe tin nở mặt nở mày,
2994 Mừng nào lại quá mừng này nữa chăng?
2995 Từ phen chiếc lá lìa rừng,
2996 Thăm tìm luống những liệu chừng nước mây.
2997 Rõ ràng hoa rụng hương bay,
2998 Kiếp sau họa thấy kiếp này hẳn thôi.
2999 Minh dương đôi ngả chắc rồi, Minh dương: Cõi tối và cõi sáng, tức âm phủ và dương gian.
3000 Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên! Cửu nguyên: Tên một xứ ở tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc) đời Xuân Thu là chỗ chôn các quan khánh và đại phu nhà Tần, người sau bèn dùng chữ cửu nguyên để chỉ mộ địa nói chung.
3001 Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
3002 Bộ hành một lũ theo liền một khi.
3003 Bẻ lau vạch cỏ tìm đi,
3004 Tình thâm luống hãy hồ nghi nửa phần.
3005 Quanh co theo dải giang tân, Giang tân: Ven sông;
3006 Khỏi rừng lau đã tới sân Phật đường.
3007 Giác Duyên lên tiếng gọi nàng,
3008 Buồng trong vội dạo sen vàng bước ra.
3009 Trông xem đủ mặt một nhà:
3010 Xuân già còn khỏe huyên già còn tươi.
3011 Hai em phương trưởng hòa hai, Phương trưởng: Khôn lớn và trưởng thành.
3012 Nọ chàng Kim đó là người ngày xưa!
3013 Tưởng bây giờ là bao giờ,
3014 Rõ ràng mở mắt còn ngờ chiêm bao!
3015 Giọt châu thánh thót quẹn bào,
3016 Mừng mừng tủi tủi xiết bao là tình!
3017 Huyên già dưới gối gieo mình,
3018 Khóc than mình kể sự tình đầu đuôi:
3019 Từ con lưu lạc quê người,
3020 Bèo trôi sóng vỗ chốc mười lăm năm! Trần tạ: Bày tỏ lòng tạ ơn. Từ bi: Thương người, chữ của nhà Phật.
3021 Tính rằng sông nước cát lầm,
3022 Kiếp này ai lại còn cầm gặp đây!
3023 Ông bà trông mặt cầm tay,
3024 Dung quang chẳng khác chi ngày bước ra.
3025 Bấy chầy dãi nguyệt dầu hoa,
3026 Mười phần xuân có gầy ba bốn phần.
3027 Nỗi mừng biết lấy chi cân?
3028 Lời tan hợp chuyện xa gần thiếu đâu!
3029 Hai em hỏi trước han sau,
3030 Đứng trông chàng cũng trở sầu làm tươi.
3031 Quây nhau lạy trước Phật đài,
3032 Tái sinh trần tạ lòng người từ bi.
3033 Kiệu hoa giục giã tức thì,
3034 Vương ông dạy rước cùng về một nơi.
3035 Nàng rằng: Chút phận hoa rơi,
3036 Nửa đời nếm trải mọi mùi đắng cay.
3037 Tính rằng mặt nước chân mây,
3038 Lòng nào còn tưởng có rày nữa không?
3039 Được rày tái thế tương phùng. Tái thế tương phùng: Gặp nhau ở đời thứ hai, ý nói thân Kiều như chết đi sống lại để gặp gỡ gia đình.
3040 Khát khao đã thỏa tấm lòng lâu nay!
3041 Đã đem mình bỏ am mây,
3042 Tuổi này gởi với cỏ cây cũng vừạ
3043 Mùi thiền đã bén muối dưa,
3044 Màu thiền ăn mặc đã ưa nâu sồng.
3045 Sự đời đã tắt lửa lòng,
3046 Còn chen vào chốn bụi hồng làm chi!
3047 Dở dang nào có hay gì,
3048 Đã tu tu trót quá thì thì thôi!
3049 Trùng sinh ân nặng bể trời, Trùng sinh: Đẻ lại lần thứ hai, ý nói làm cho mình sống lại. Chỉ vào ơn của Giác duyên.
3050 Lòng nào nỡ dứt nghĩa người ra đi?
3051 Ông rằng: Bỉ thử nhất thì, Bỉ thứ nhất thì: Do câu Bỉ nhất thì, thử nhất thì ý nói xưa kia là một thì, bây giờ là một thì, hoàn cảnh khác nhau không thể câu nệ được.
3052 Tu hành thì cũng phải khi tòng quyền. Tòng quyền: Theo quyền biến, ý nói phải thay đổi việc làm cho thích nghi, không thể nhất nhất giữ đạo thường được.
3053 Phải điều cầu Phật cầu Tiên,
3054 Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?
3055 Độ sinh nhờ đức cao dày,
3056 Lập am rồi sẽ rước thầy ở chung. Lập am: Dựng chùa, ý nói sẽ làm ngôi chùa riêng, mời Giác Duyên về ở chung.
3057 Nghe lời nàng cũng chiều lòng,
3058 Giã sư giã cảnh đều cùng bước ra.
3059 Một nhà về đến quan nha,
3060 Đoàn viên vội mở tiệc hoa vui vầy.
3061 Tàng tàng chén cúc dở say,
3062 Đứng lên Vân mới giãi bày một hai.
3063 Rằng: Trong tác hợp cơ trời. Tác hợp: Do chữ Kinh thi: Thiên tác chỉ hợp, ý nói duyên trời xui khiến cho Kim Trọng, Thuý Kiều gặp gỡ và kết hợp với nhau.
3064 Hai bên gặp gỡ một lời kết giao.
3065 Gặp cơn bình địa ba đào, Bình địa ba đào: ý nói những sự bất trắc trong đời người, chẳng khác gì đất bằng lại nổi sóng.
3066 Vậy đem duyên chị buộc vào cho em.
3067 Cũng là phận cải duyên kim,
3068 Cũng là máu chảy ruột mềm chớ sao? Tục ngữ: Máu chảy ruột mềm, ý nói giữa bà con ruột thịt có sự tương quan mật thiết, như máu với ruột, hễ máu chảy thì ruột mềm.
3069 Những là rày ước mai ao,
3070 Mười lăm năm ấy biết bao nhiêu tình!
3071 Bây giờ gương vỡ lại lành, Gương vỡ lại lành: Dịch chữ Phá kính trùng viên. Nguyên đời Trần (Trung Quốc) Từ Đức Ngôn lấy Lạc Xương công chúa. Khi biết nước nhà sắp bị diệt, vợ chồng thế nào cũng bị phân ly, bèn đập vỡ cái gương, mỗi người giữ một nửa, dùng làm của tin để tìm gặp nhau, sau quả nhiên hai người lại nối được tình nghĩa vợ chồng. Câu này dùng điển ấy.
3072 Khuôn thiêng lừa lọc đã dành có nơi.
3073 Còn duyên may lại còn người,
3074 Còn vầng trăng bạc còn lời nguyền xưa.
3075 Quả mai ba bảy đương vừa, Kinh Thi: Phiếu hữ mai, kỳ thực nhất hề... Phiếu hữu mai, kỳ thực tam hề...(Mơ rụng xuống, quả còn bảy phần..., mơ rụng xuống, quả còn ba phần) ý nói tiết xuân đã muộn nên kíp lo liệu việc hôn nhân. ở đây Thuý Vân muốn nói Kiều vẫn còn vừa tuổi đi lấy chồng.
3076 Đào non sớm liệu xe tơ kịp thì.
3077 Dứt lời nàng vội gạt đi:
3078 Sự muôn năm cũ kể chi bây giờ?
3079 Một lời tuy có ước xưa,
3080 Xét mình dãi gió dầu mưa đã nhiều.
3081 Nói càng hổ thẹn trăm chiều,
3082 Thà cho ngọn nước thủy triều chảy xuôi!
3083 Chàng rằng: Nói cũng lạ đời,
3084 Dẫu lòng kia vậy còn lời ấy sao?
3085 Một lời đã trót thâm giao, Thâm giao: Giao ước với nhau một cách ân cần, cốt thiết.
3086 Dưới dày có đất trên cao có trời!
3087 Dẫu rằng vật đổi sao dời, Vật đổi sao dời: ý nói mọi việc trên đời đều thay đổi.
3088 Tử sinh phải giữ lấy lời tử sinh! Câu thơ này ý nói: trước khi đã có lời thề sống chết với nhau thì dù sống, dù chết cũng phải giữ lấy lời thề ấy.
3089 Duyên kia có phụ chi tình,
3090 Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai?
3091 Nàng rằng: Gia thất duyên hài, Gia thất: Tả truyện có câu: Nam hữu thất, nữ hữu gia. Nghĩa là con trai có vợ, con gái có chồng. Gia thất duyên hài: Đẹp duyên vợ chồng.
3092 Chút lòng ân ái ai ai cũng lòng.
3093 Nghĩ rằng trong đạo vợ chồng,
3094 Hoa thơm phong nhị trăng vòng tròn gương. Câu này ý nói: Con gái lấy chồng phải như là hoa còn phong nhị, vầng trăng chưa khuyết ý nói trinh tiết còn nguyên vẹn.
3095 Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
3096 Đuốc hoa chẳng thẹn với chàng mai xưa. Đuốc hoa: Câu này ý nói: Nếu trinh tiết còn nguyên thì đêm hợp hôn mới không hổ thẹn.
3097 Thiếp từ ngộ biến đến giờ. Ngộ biến: Gặp phải tai biến.
3098 Ong qua bướm lại đã thừa xấu xa.
3099 Bấy chầy gió táp mưa sa.
3100 Mấy trăng cũng khuyết mấy hoa cũng tàn.
3101 Còn chi là cái hồng nhan,
3102 Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?
3103 Nghĩ mình chẳng hổ mình sao,
3104 Dám đem trần cấu dự vào bố kinh! Trần cấu: Bụi nhơ.
3105 Đã hay chàng nặng vì tình,
3106 Trông hoa đèn chẳng thẹn mình lắm ru!
3107 Từ rày khép cửa phòng thu,
3108 Chẳng tu thì cũng như tu mới là!
3109 Chàng dù nghĩ đến tình xa,
3110 Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ. Cầm sắt: Kinh thi: Thê tử hảo hợp như cổ sắt cầm. (Vợ con hoà hợp như gảy đàn sắt, đàn cầm). Người sau bèn dùng hai chữ cầm sắt để chỉ tình vợ chồng. Cầm cờ: Khi bầu bạn gặp nhau thường gảy đàn, đánh cờ làm vui, cho nên người ta thường dùng hai chữ cầm kỳ để chỉ tình bạn hữu. Câu này ý nói: Nên đem tình vợ chồng đổi làm tình bầu bạn.
3111 Nói chi kết tóc xe tơ,
3112 Đã buồn cả ruột mà dơ cả đời!
3113 Chàng rằng: Khéo nói nên lời,
3114 Mà trong lẽ phải có người có ta!
3115 Xưa nay trong đạo đàn bà,
3116 Chữ trinh kia cũng có ba bảy đường,
3117 Có khi biến có khi thường,
3118 Có quyền nào phải một đường chấp kinh. Quyền: Quyền biến, nghĩa là theo hoàn cảnh mà thay đổi các xử sự. Chấp kinh: Giữ theo đạo thường, lê thường.
3119 Như nàng lấy hiếu làm trinh,
3120 Bụi nào cho đục được mình ấy vay?
3121 Trời còn để có hôm nay,
3122 Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời.
3123 Hoa tàn mà lại thêm tươi,
3124 Trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa.
3125 Có điều chi nữa mà ngờ,
3126 Khách qua đường để hững hờ chàng Tiêu! Chàng Tiêu: Do chữ Tiêu Lang, tiếng xưng hô của người con gái đối với tình nhân. Tình sử chép: Thôi Giao, đời Đường, có người yêu bị người ta bắt bán cho quan Liên suý. Chàng buồn rầu làm bài thơ, trong có câu: Hầu môn nhất nhập thâm tự hải, tòng thử Tiêu làng thị lộ thân (Cửa hầu vào rồi thấy sâu như biển, từ đấy chàng Tiêu là người khách qua đường). Câu này ý nói: Nỡ nào lại hững hờ không nhận người yêu cũ hay sao.
3127 Nghe chàng nói đã hết điều,
3128 Hai thân thì cũng quyết theo một bài.
3129 Hết lời khôn lẽ chối lời,
3130 Cúi đầu nàng những vắn dài thở than.
3131 Nhà vừa mở tiệc đoàn viên,
3132 Hoa soi ngọn đuốc hồng chen bức là.
3133 Cùng nhau giao bái một nhà,
3134 Lễ đà đủ lễ đôi đà xứng đôi.
3135 Động phòng dìu dặt chén mồi,
3136 Bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa.
3137 Những từ sen ngó đào tơ,
3138 Mười lăm năm mới bây giờ là đây!
3139 Tình duyên ấy hợp tan này,
3140 Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao. Câu này ý nói: Kim Trọng, Thuý Kiều cùng nhau kể lể những chuyện buồn, chuyện vui mãi cho đến khi đêm đã khuya, trăng đã cao.
3141 Canh khuya bức gấm rủ thao,
3142 Dưới đèn tỏ rạng má đào thêm xuân.
3143 Tình nhân lại gặp tình nhân,
3144 Hoa xưa ong cũ mấy phân chung tình.
3145 Nàng rằng: Phận thiếp đã đành,
3146 Có làm chi nữa cái mình bỏ đi!
3147 Nghĩ chàng nghĩa cũ tình ghi,
3148 Chiều lòng gọi có xướng tùy mảy may. Xướng tuỳ: Do câu Phu xướng phụ tuỳ (Chồng xướng vợ nghe theo). Đấy dùng để thay cho chữ phu phụ (vợ chồng).
3149 Riêng lòng đã thẹn lắm thay,
3150 Cũng đà mặt dạn mày dày khó coi!
3151 Những như âu yếm vành ngoài,
3152 Còn toan mở mặt với người cho qua.
3153 Lại như những thói người ta,
3154 Vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa.
3155 Khéo là giở nhuốc bày trò,
3156 Còn tình đâu nữa là thù đấy thôi!
3157 Người yêu ta xấu với người,
3158 Yêu nhau thì lại bằng mười phụ nhau!
3159 Cửa nhà dù tính về sau,
3160 Thì còn em đó lọ cầu chị đây. Câu này ý nói: Nếu Kim Trọng nghĩ đến việc sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường về sau thì đã có Thuý Vân.
3161 Chữ trinh còn một chút này, Kiều ngầm ý nói rằng: Nàng sở dĩ bị cảnh ong qua bướm lại là do hàon cảnh bắt buộc, chứ tâm hồn nàng thì vẫn trong trắng. Chữ Trinh đây hiểu về phương diện tinh thần chứ không phải về thể xác.
3162 Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan!
3163 Còn nhiều ân ái chan chan,
3164 Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi?
3165 Chàng rằng: Gắn bó một lời,
3166 Bỗng không cá nước chim trời lỡ nhau.
3167 Xót người lưu lạc bấy lâu,
3168 Tưởng thề thốt nặng nên đau đớn nhiều!
3169 Thương nhau sinh tử đã liều,
3170 Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình.
3171 Chừng xuân tơ liễu còn xanh,
3172 Nghĩ rằng chưa thoát khỏi vành ái ân.
3173 Gương trong chẳng chút bụi trần,
3174 Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm!
3175 Bấy lâu đáy bể mò kim, Đáy bề mò kim: Dịch câu Hải đề lao châm, ý nói làm một việc rất khó khăn, mất nhiều công phu.
3176 Là nhiều vàng đá phải tìm trăng hoa? Câu này ý nói: Bấy lâu đi tìm nàng là đeo đuổi lời thề vàng đá, không phải là tìm thú trăng hoa.
3177 Ai ngờ lại họp một nhà,
3178 Lọ là chăn gối mới ra sắt cầm!
3179 Nghe lời sửa áo cài trâm,
3180 Khấu đầu lạy tạ cao thâm nghìn trùng: Cao thâm: Cao sâu, ý nói Kiều cảm tạ cái nghĩa cao ơn sâu của Kim Trọng.
3181 Thân tàn gạn đục khơi trong,
3182 Là nhờ quân tử khác lòng người ta.
3183 Mấy lời tâm phúc ruột rà,
3184 Tương tri dường ấy mới là tương tri!
3185 Chở che đùm bọc thiếu chi,
3186 Trăm năm danh tiết cũng vì đêm nay!
3187 Thoắt thôi tay lại cầm tay,
3188 Càng yêu vì nết càng say vì tình.
3189 Thêm nến giá nối hương bình,
3190 Cùng nhau lại chuốc chén quỳnh giao hoan.
3191 Tình xưa lai láng khôn hàn,
3192 Thong dong lại hỏi ngón đàn ngày xưa.
3193 Nàng rằng: Vì mấy đường tơ,
3194 Lầm người cho đến bây giờ mới thôi!
3195 Ăn năn thì sự đã rồi!
3196 Nể lòng người cũ vâng lời một phen.
3197 Phím đàn dìu dặt tay tiên,
3198 Khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa.
3199 Khúc đâu đầm ấm dương hòa, Dương hoà: Khí dương đầm ấm của mùa xuân.
3200 Ấy là hồ điệp hay là Trang sinh. Hồ điệp: Con bướm. Trang sinh: Tức Trang Chu, hay Trang Tử. đời Chiến Quốc. Xưa Trang Chu nằm chiêm bao thấy mình hoá thành con bướm tung bay nhởn nhơ, tỉnh dậy bàng hoàng tự hỏi: Không hiểu ta hoá thành bướm, hay chính bướm đương hoá thành ta. ở đây nói khúc đàn tiêu dao, phiêu dật.
3201 Khúc đâu êm ái xuân tình,
3202 Ấy hồn Thục đế hay mình đỗ quyên? Thục đế: Vua nước Thục. Đỗ quyên: Con chim quốc. Tương truyền xưa vua nước Thục buồn vì mất nước, chết hoá thành con chim đỗ quyên, tiếng kêu ai oán.
3203 Trong sao châu nhỏ duềnh quyên, Duềnh quyên: Vũng nước biển sáng đẹp.
3204 Ấm sao hạt ngọc Lam điền mới đông! Lam Điền: Tên một hòn núi ở tỉnh Thiểm Tây, chỗ sản sinh nhiều ngọc quí.
3205 Lọt tai nghe suốt năm cung,
3206 Tiếng nào là chẳng não nùng xôn xao.
3207 Chàng rằng: Phổ ấy tay nào,
3208 Xưa sao sầu thảm nay sao vui vầy?
3209 Tẻ vui bởi tại lòng này,
3210 Hay là khổ tận đến ngày cam lai? Khổ tận cam lai: Đắng hết ngọt đến, ý nói vận khổ đã qua, vận sướng bắt đầu tới.
3211 Nàng rằng: Ví chút nghề chơi,
3212 Đoạn trường tiếng ấy hại người bấy lâu!
3213 Một phen tri kỷ cùng nhau,
3214 Cuốn dây từ đấy về sau cũng chừa.
3215 Chuyện trò chưa cạn tóc tơ,
3216 Gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông.
3217 Tình riêng chàng lại nói sòng,
3218 Một nhà ai cũng lạ lùng khen lao.
3219 Cho hay thục nữ chí cao, Thục nữ chí cao: Người con gái hiền thục có tâm chí cao thượng.
3220 Phải người tối mận sớm đào như ai? Sớm mận tối đào: Sớm ấp mận, tối ôm đào, ý nói người trăng gió, tình yêu không chuyên nhất. Xem chú thích 1289
3221 Hai tình vẹn vẽ hòa hai,
3222 Chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ.
3223 Khi chén rượu khi cuộc cờ,
3224 Khi xem hoa nở khi chờ trăng lên.
3225 Ba sinh đã phỉ mười nguyền,
3226 Duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy.
3227 Nhớ lời lập một am mây,
3228 Khiến người thân thích rước thầy Giác Duyên.
3229 Đến nơi đóng cửa cài then,
3230 Rêu trùm kẻ ngạch cỏ len mái nhà,
3231 Sư đà hái thuốc phương xa,
3232 Mây bay hạc lánh biết là tìm đâu?
3233 Nặng vì chút nghĩa bấy lâu,
3234 Trên am cứ giữ hương dầu hôm mai.
3235 Một nhà phúc lộc gồm hai,
3236 Ngàn năm dằng dặc quan giai lần lần. Quan giai: Cấp bậc quan lại, ý nói Kim Trọng làm quan được lần lần thăng chức.
3237 Thừa gia chẳng hết nàng Vân, Thừa gia: Đảm đương việc nhà, cũng có nghĩa là sang dòng nối dõi tông đường.
3238 Một cây cù mộc một sân quế hòe. Cù mộc: Chỉ vợ cả. Xem chú thích 902. Quế hoè: Xưa họ Đậu, đời Tống, có năm người con trai đều hiển đạt, Vương Đạo có câu thơ khen: Đan quế ngũ chi phương (Quế đỏ năm cành thơm). Xem thêm điển Vương Hữu. Câu này dẫn mấy điển ấy để nói Kim Trọng có đông con cháu hiển đạt sau này.
3239 Phong lưu phú quý ai bì,
3240 Vườn xuân một cửa để bia muôn đời
3241 Ngẫm hay muôn sự tại trời,
3242 Trời kia đã bắt làm người có thân.
3243 Bắt phong trần phải phong trần,
3244 Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
3245 Có đâu thiên vị người nào,
3246 Chữ tài chữ mệnh dồi dào cả hai,
3247 Có tài mà cậy chi tài,
3248 Chữ tài liền với chữ tai một vần.
3249 Đã mang lấy nghiệp vào thân,
3250 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
3251 Thiện căn ở tại lòng ta,
3252 Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
3253 Lời quê chắp nhặt dông dài,
3254 Mua vui cũng được một vài trống canh. CHÚC MỪNG BẠN ĐÃ ĐỌC TỚI CÂU CUỐI CÙNG. ĐA TẠ. HẸN GẶP LẠI.